ĐẶC ĐIỂM BIẾN DẠNG ĐỚI ĐỨT GÃY HOẠT ĐỘNG ĐIỆN BIÊN - LAI CHÂU VÀ TIỀM NĂNG ĐỊA NHIỆT VÙNG U VA, TÂY NAM TRŨNG ĐIỆN BIÊN

VŨ VĂN TÍCH, CHU VĂN NGỢI, LƯƠNG THỊ THU HOÀI,
DƯƠNG THỊ TOAN, PHẠM KHẮC HÙNG

Khoa Địa chất, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
 ĐHQG Hà Nội, 344, Nguyễn Trãi, Hà Nội

Tóm tắt: Đới đứt gãy Điện Biên - Lai Châu hoạt động mạnh trong tân kiến tạo và kiến tạo hiện đại. Dọc theo đới đứt gãy đã hình thành nhiều trũng Đệ tứ, trong đó trũng Điện Biên lớn nhất và có tiềm năng địa nhiệt. Bài báo tập trung đánh giá tiềm năng địa nhiệt của vùng nghiên cứu thông qua: 1. Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc biến dạng, mức độ dập vỡ của đất đá dọc đới đứt gãy; 2. Xác định trường phân bố nhiệt và sức nóng nguồn nhiệt; 3. Nghiên cứu địa chất thủy văn, đánh giá khả năng cung cấp nước nóng của khu vực. Kết quả nghiên cứu cho thấy trường địa nhiệt của trũng Điện Biên thuộc mức trung bình, có quan hệ với đứt gãy Điện Biên - Lai Châu trong vai trò cung cấp nhiệt và đứt gãy phương TB-ĐN trong vai trò tạo kênh dẫn nước nóng đi lên, có thể đủ điều kiện để xây dựng một nhà máy điện địa nhiệt quy mô nhỏ. Ngoài ra, nước khoáng nóng U Va có chất lượng tốt, có thể khai thác 216 m3/ngày phục vụ nhu cầu du lịch.


I. GIỚI THIỆU

Đới đứt gãy kiến tạo hiện đại Điện Biên - Lai Châu (Hình 1A) đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, như vai trò kiến tạo, đánh giá nguy cơ động đất, tai biến trượt lở, … [5, 8]. Tuy nhiên, việc nghiên cứu mức độ biến dạng phục vụ đánh giá tiềm năng địa nhiệt chưa được đề cập. Địa nhiệt là một nguồn năng lượng sạch và nhiều tiềm năng, đồng thời, nhu cầu về năng lượng đang là vấn đề cấp bách của nước ta, đặc biệt là ở khu vực miền núi. Như chúng ta đã biết, địa nhiệt thoát ra từ lòng đất nhờ hoạt động magma hoặc liên quan với hoạt động đứt gãy - nơi vỏ Trái đất bị dập vỡ, tạo điều kiện cho nhiệt trong lòng đất thoát ra với lượng lớn. Hiện nay, năng lượng địa nhiệt đang là nguồn năng lượng hết sức quan trọng, trong đó có việc sử dụng hơi nước quay tuốc bin trong nhà máy nhiệt điện đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới. Phần lớn nguồn địa nhiệt này liên quan đến các đới đứt gãy hoạt động, song ở nước ta chưa có các nghiên cứu đề cập tới vai trò của các đới đứt gãy hoạt động trong việc cung cấp năng lượng địa nhiệt. Bài báo này, trên cơ sở nghiên cứu mức độ hoạt động của đới đứt gãy Điện Biên - Lai Châu tiến hành đánh giá tiềm năng địa nhiệt trong trũng Điện Biên, làm cơ sở khoa học cho việc xem xét xây dựng nhà máy điện địa nhiệt ở khu vực này.

II. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT ĐỚI ĐỨT GÃY ĐIỆN BIÊN - LAI CHÂU

Đứt gãy Điện Biên - Lai Châu (Hình 1A) có hướng gần bắc-nam, dài khoảng 500 km, bắt đầu từ lãnh thổ Trung Quốc cắt qua Việt Nam và kéo sang lãnh thổ Lào. Hoạt động dịch chuyển của đứt gãy làm biến dạng vỏ Trái đất để lại vùng dập vỡ, nơi rộng nhất đạt tới 10 km gắn liền với cấu trúc của trũng Điện Biên [7]. Bên cạnh đó, tại vùng nghiên cứu, quy mô bề rộng của đới biến dạng không chỉ phụ thuộc vào hệ thống đứt gãy Điện Biên - Lai Châu, mà còn phụ thuộc vào hệ thống đứt gãy phương TB-ĐN có trong khu vực [8]. Sự tác dụng đồng thời của hai hệ thống đứt gãy này tạo nên đới dập vỡ rộng lớn (trũng Điện Biên, Hình 1B).


Hình 1. A. Đới đứt gãy Điện Biên - Lai Châu [8]; B. Mặt cắt trũng Điện Biên [8];
C. Sơ đồ vùng nghiên cứu và các tuyến khảo sát [4].


Mức độ biến dạng hiện đại của đới đứt gãy Điện Biên - Lai Châu được thể hiện rất rõ qua các thành tạo địa chất bị nghiền vụn, dập vỡ, phân bố dọc đới đứt gãy [6]. Trong Kainozoi, hoạt động kiến tạo xảy ra hết sức mạnh mẽ và trải qua hai pha biến dạng chính [7]: a) Pha sớm Oligocen-Miocen với đặc trưng khu vực chịu tác động của trường lực kiến tạo với trục nén cực đại hướng á vĩ tuyến. Dưới tác động của trường lực này, các đứt gãy sâu phương TB-ĐN chuyển động theo cơ chế trượt bằng trái và các đứt gãy á kinh tuyến chuyển động theo cơ chế trượt bằng phải. Sự tương tác chuyển động của hai hệ đứt gãy này đã tạo ra vùng nén ép và vùng căng giãn. Ở vùng nén ép, các thành tạo địa chất bị ép dập, nghiền vụn. Ở vùng căng giãn, chúng bị phân cắt và sụt bậc; b) Pha muộn Pliocen - Đệ tứ được đặc trưng bởi trường lực với trục nén ép cực đại phương á kinh tuyến. Dưới tác dụng của trường lực này, các đứt gãy sâu phương TB-ĐN chuyển động theo cơ chế trượt bằng phải và các đứt gãy phương á kinh tuyến chuyển động theo cơ chế trượt bằng trái. Dọc theo các đứt gãy, các thành tạo địa chất bị dập vụn tạo ra các đới cắt trượt với quy mô khác nhau. Sự tương tác chuyển động của hai hệ đứt gãy sâu đã tạo ra nhiều trũng Đệ tứ (các trũng Mường Lay, Chăn Nưa, Điện Biên, ...) và các vùng nén ép, nghiền, dập vụn.

Hoạt động của các pha biến dạng nêu trên đã tạo nên các bồn trầm tích trẻ với độ gắn kết kém, độ rỗng hiệu dụng lớn, có khả năng chứa nước tốt thể hiện trên mặt cắt qua trũng Điện Biên và các đặc điểm thạch học được thể hiện trong Hình 1B. Độ sâu tương đối của trũng lên đến 200 m, bề rộng lên đến 8 km, đáy trũng có dạng bất đối xứng, lấp đầy các trầm tích bở rời tuổi Đệ tứ [8]. Từ cấu trúc của trũng, có thể luận giải về hai yếu tố quan trọng: 1) Trũng có khả năng chứa nước tốt,2) có khả năng thoát nhiệt tốt từ manti ở dưới sâu. Hai yếu tố này là điều kiện thành tạo nguồn nước nóng trữ lượng lớn ở trũng Điện Biên sẽ trình bày dưới đây.

III. CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊA NHIỆT

1. Đặc điểm địa chất thủy văn vùng U Va và tiềm năng của bể chứa

Trũng Điện Biên là một thung lũng giữa núi có độ cao từ 400 đến 570 m, xung quanh là đồi núi cao dần đạt trên 1000 m, hình thành lòng chảo có dạng elip, kéo dài theo phương bắc-nam với chiều dài 18 km, chiều rộng khoảng gần 10 km; mở rộng ở giữa, hẹp ở hai đầu, cao dần về hai phía đông và tây. Với dạng địa hình như vậy, thung lũng Điện Biên có mạng sông suối tương đối dày. Dựa vào các kết quả điều tra địa chất [6], địa chất thuỷ văn ở trũng Điện Biên và mạng lưới khoan, đã xác lập được các đơn vị chứa nước sau: 1) Tầng chứa nước lỗ hổng không xuất lộ trong thung lũng, được các lớp sét, sét bột, sét cát tuổi Đệ tứ phủ kín. Các kết quả khoan sâu tại Bản Phủ cho thấy có 3 tầng chứa nước phân bố thành dải gần trung tâm thung lũng, kéo dài từ bắc xuống nam ở cuối thung lũng; 2) Nước khe nứt, theo báo cáo điều tra Địa chất đô thị Điện Biên mới chỉ phát hiện được 2 dải đá nứt nẻ trên cát kết T3n-r sb  với độ chứa nước trung bình [7].

Trong vùng nghiên cứu có 2 điểm nước khoáng nóng đã được phát hiện từ lâu và đã được tận dụng khai thác ở mức độ thô sơ. Nguồn nước khoáng nóng Bom Lot (Nà Ten) thuộc bản Bom Lot, xã Lay Tảng, huyện Điện Biên, là một nhóm điểm lộ phân bố ở cả hai bờ sông Nậm Rốm. Nước trong không màu, nhưng có mùi sunfur hydro. Nhiệt độ nước bề mặt 65-750C. Độ khoáng hoá trong khoảng 380 đến 900 mg/l, hàm lượng H2SiO3 từ trên 50 đến trên 100 mg/l [7]. Nước khoáng nóng xuất lộ là một dạng biểu hiện của đứt gãy hoạt động nơi vỏ Trái đất gây dập vỡ chưa gắn kết, tạo điều kiện cho nhiệt trong manti thoát ra. Nhiệt thoát ra với gradien dị thường cao làm nóng nguồn nước trong b chứa ở dưới, đồng thời đứt gãy đang hoạt động làm kênh dẫn cho nước xuất lộ trên bề mặt.

Kết quả khoan khảo sát và bơm hút thí nghiệm của công trình nghiên cứu được thực hiện trên đới dập vỡ kiến tạo. Mực nước tĩnh trong lỗ khoan ở độ sâu 14 m là 1,8 m, nhiệt độ nước tăng dần từ 480 đến 600C (ở độ sâu 13,70 m); khi khoan sâu 14 m, mực nước trong lỗ khoan dâng cao đến độ sâu 0,5 m, nhiệt độ là 590C. Như vậy từ độ sâu này nước dưới đất đã thể hiện tính có áp với độ chênh áp đến: 14 - 0,5 m = 13,5 m. Đới chứa nước khoáng có thể được tính từ đây. Khi đó, nước dưới đất đã tạo thành vòm cao hơn nước ngầm bên trên là: 1,8 - 0,5 m = 1,3 m. Khi khoan đến độ sâu 21,3 m thì nhiệt độ nước giảm còn 510C. Khoan tiếp từ 21,3 đến 36,9 m thì mất nước. Khi khoan tiếp đến độ sâu 37 m, nước đã phun lên trên mặt đất, khoan tiếp 2 m, nước tiếp tục phun với lưu lượng sơ bộ 0,33 l/s và nhiệt độ 740C. Chiều sâu này bắt đầu khơi thông đới chứa nước nóng chính thống. Lưu lượng tự lưu ứng với hạ thấp mực nước 0,81 m là 0,228 l/s (19,68 m3/ngày).

Các kết quả nghiên cứu địa chất cấu trúc và địa chất thủy văn [4] cho thấy hệ thống khe nứt chứa nước gồm những khe nứt gần dốc đứng và khá mở, tạo điều kiện nước khoáng nóng đi lên nhanh và nhiệt độ nước không chênh lệch nhiều giữa đới sâu và đới trên mặt. Tại lỗ khoan đã thực hiện được 3 đợt bơm, nghiên cứu quan hệ giữa lưu lượng và độ hạ thấp của mực nước cho phép dự đoán trữ lượng khai thác. Theo nghiên cứu, thời gian hồi phục mực nước rất ngắn, cho thấy khả năng hồi phục trữ lượng nhanh. Trong tất cả các đợt bơm, các mạch lộ ở lòng khe vẫn tồn không thấy bị biến đổi. Như vậy, lưu lượng bơm ra so với khả năng cấp là khá nhỏ. Theo kết quả tính toán thể hiện trên đồ thị bậc hai với tương quan khá chặt (Hình 2), cho phép ngoại suy theo Altovsky là 1,75. Nghĩa là mực nước hạ thấp đến 8 m vẫn có thể cho lưu lượng hợp lý.


Hình 2. Quan hệ giữa lưu lượng và hạ thấp mực nước [4].


Tuy nhiên, do cấu trúc lỗ khoan (ống lọc hơi cao) nên chỉ có thể đặt ống hơi ở khoảng 9 m. Vì thế nếu chọn hạ thấp 8 m (nghĩa là mực nước động ở khoảng 7 m) sẽ khó đặt ống hơi khi sử dụng máy bơm hơi ép để khai thác. Vì thế, nên chọn hạ thấp 7 m, tức là mực nước động khoảng 6 m sẽ phù hợp hơn cho cả 2 cách dùng máy (bơm ép hơi và bơm ly tâm). Trên đồ thị, ta thấy ứng với hạ thấp 7 m thì lưu lượng khai thác hợp lý sẽ là khoảng 2,5 l/s, tức 216 m3/ngày. Những nhận xét về lỗ khoan ở trên và kết quả bơm thí nghiệm cho thấy trữ lượng được xác định 216 m3/ng là tin cậy được và phù hợp với những phương thức khai thác thông dụng. Trên thực tế, để xây dựng nhà máy điện địa nhiệt cần phải tiến hành khoan sâu hơn nhiều thì mới có khả năng tìm được nguồn nhiệt có nhiệt độ cao đủ cung cấp hơi nước và cho lưu lượng nước cho nhà máy địa nhiệt.

2. Kết quả khảo sát địa vật lý và trường phân bố địa nhiệt           

2.1. Kết quả khảo sát địa nhiệt trên mặt: Khảo sát địa nhiệt bề mặt xác định trường phân bố của nguồn nhiệt được tiến hành bằng phương pháp đo dòng nhiệt bề mặt, kết quả được trình bày ở sơ đồ (Hình 3). Theo đó, trường địa nhiệt khu vực khảo sát có thể phân ra 3 đới rõ rệt, đó là đới tây bắc, đới đông đới tây nam.

Đới tây bắc được giới hạn bởi đường đẳng nhiệt 290C là đới dị thường địa nhiệt, thể hiện mạnh mẽ nhất gồm 3 đỉnh dị thường có biên độ rất lớn, trên 120C; đó là dị thường điểm lộ U Va, bao gồm điểm lộ đang khai thác và đới ảnh hưởng của nó trong thung lũng U Va; đỉnh dị thường nằm ở giữa sông Nậm Rốm và đỉnh dị thường bản Pa Nậm có dạng elip, trục kéo dài theo phương TB-ĐN trùng với phương của đứt gãy.


Hình 3. Sơ đồ trường địa nhiệt vùng U Va [4].


Đới đông với trường địa nhiệt tương đối bình ổn, gradien nhiệt độ biến đổi không lớn. Tuy vậy, đới này lại có thể chia làm 2 vùng có tính chất khác nhau là: vùng phía bắc có nhiệt độ tăng dần về phía đới tây nam và đới nam khá bình ổn. Ranh giới 2 đới này có lẽ liên quan đến sự thay đổi thành phần thạch học của trầm tích lớp phủ, hay cũng có thể tồn tại một đứt gãy kiến tạo phương ĐB-TN.

Đới tây nam là đới địa nhiệt hoạt động yếu với trường địa nhiệt bình ổn và nhiệt độ thấp có lẽ liên quan đến sự nhô lên của đá gốc.

2.2. Kết quả khảo sát điện: Đã tiến hành đo 3 tuyến cắt lớp điện trở, 5 tuyến mặt cắt điện trở. Vị trí các tuyến đo của từng phương pháp kể trên được thể hiện trên Hình 1C. Kết quả đo các tuyến được thể hiện trên Hình 4. Kết quả phân tích cho thông tin về đặc điểm cấu trúc địa chất, kiến tạo và biểu hiện của cấu trúc chứa nước và nước khoáng.

Đá phong hoá là vùng điện trở suất cao (từ 100 đến 200 Ωm) phân bố từ bề mặt tới độ sâu 20-40 m (thể hiện bằng phổ màu đen trên bản vẽ). Ở vùng này, các lớp có chiều dày thay đổi mạnh phụ thuộc vào bề mặt lớp đá gốc. Tại khu vực khảo sát, đá gốc là bột kết có điện trở suất cao (>300 Ωm) thể hiện bằng phổ màu đen đậm trên bản vẽ. Đá gốc rắn là nền dưới lớp phong hoá khô, thực tế ở khu vực khảo sát đá gốc nằm bao cả 3 phía tạo thành một thung lũng nhỏ, địa hình phân cắt.


Hình 4. Kết quả đo điện vùng U Va [4].


Như chúng ta đã biết, nước khoáng có độ dẫn điện cao (điện trở suất thấp) so với đất đá khác. Phân tích đặc điểm cấu trúc đất đá thông qua giá trị điện trở suất từ tài liệu kết quả đo cắt lớp điện trở có thể nhận biết được biểu hiện của nguồn nước đó. Ở bên trên, chúng ta đã đánh giá và liên kết được đặc trưng điện trở suất với các cấu trúc phân bố trầm tích chứa nước, đá gốc rắn, lớp phong hoá, đới dập vỡ phá huỷ. Trên tài liệu còn thể hiện các cấu trúc điện trở suất thấp tạo thành đới xen giữa đá gốc và trầm tích, cũng như lớp phong hoá khô, chính là biểu hiện của nguồn nước khoáng nóng từ dưới sâu đưa lên – đối tượng cần quan tâm. Dạng cấu trúc này thể hiện khá rõ trên cả 3 tuyến đo sâu điện: trên tuyến số 1 đới điện trở suất thấp có bề rộng khoảng 100 m liên tục xuống độ sâu trên 60 m, đây chính là kênh dẫn tạo điều kiện cho xuất lộ nước khoáng nóng ở U Va; trên mặt cắt địa điện số 2 và số 3, cấu trúc có điện trở suất thấp này có xu hướng chìm dần xuống hoặc bị lớp phong hoá phủ lên trên. Phân tích mặt cắt cấu trúc có thể nhận biết các đường dẫn nước khoáng theo các mạch gián đoạn của nền đá gốc, điển hình cho biểu hiện của sự phá hủy kiến tạo liên quan đến chuyển dịch của đứt gãy từ nguồn sâu lên. Tổng hợp kết quả khảo sát trên có thể nhận định: các điểm lộ nước khoáng quan sát được trên mặt đều được dẫn từ nguồn này, tuy nhiên với độ sâu khảo sát (60 m) chưa thể xác định nguồn gốc thực sự của nước khoáng nóng ở khu vực này. Để biết được nhiệt độ của bể chứa, cần sử dụng một công cụ khác được sẽ trình bày dưới đây.

3. Kết quả tính toán địa nhiệt kế

Địa nhiệt kế là phương pháp tính nhiệt độ của bể chứa địa nhiệt nhờ sử dụng các công thức dựa vào hàm lượng của các nguyên tố trong dung dịch nhiệt. Đây là phương pháp được áp dụng cho tất cả các nghiên cứu, thăm dò và khai thác địa nhiệt trên thế giới. Cơ sở của phương pháp này là dựa vào tính chất hòa tan của các khoáng vật trong nước cũng như phản ứng giữa các đá vây quanh với nước địa nhiệt. Ở một nhiệt độ áp suất nào đó, khả năng hòa tan của khoáng vật hoặc sự phản ứng giữa khoáng vật hay đá vây quanh với nước là khác nhau. Khi nước chứa địa nhiệt lên đến mặt đất, mặc dù điều kiện nhiệt độ áp suất có thay đổi, xong cơ bản là chúng vẫn giữ được thành phần ban đầu khi chúng ta lấy đi phân tích. Hầu hết các địa nhiệt kế được sử dụng hiện nay đều dựa vào nồng độ của silic và các tỷ số cation. Địa nhiệt kế silica rất dễ tính mà lại chỉ dựa vào nồng độ silic trong dung dịch nhiệt, có một loạt các công thức địa nhiệt kế khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm của từng nguồn địa nhiệt đã được các nhà khoa học trên thế giới phát triển như Fournier [3] hay Arnórsson [1], v.v.. Trong khuôn khổ của số liệu phân tích ở vùng U Va (Bảng 1), chúng tôi chỉ sử dụng các địa nhiệt kế cation và sử dụng công thức đối với các cation Na và K để tính toán nhiệt độ của bể chứa.

Bảng 1. Kết quả phân tích một số thành phần khoáng hóa nước khoáng nóng
tại vùng U Va [4].

TT

Chỉ tiêu

Đơn vị

Số mẫu

Hàm lượng

Max

Min

TB

1

Fe

mg/l

20

0,40

0,29

0,36

2

As

mg/l

20

0,0024

0,0008

0,001

3

Hg

mg/l

20

0,00085

0,00055

0,0006

4

Na+

mg/l

20

160,7

159,6

159, 9

5

K+

mg/l

20

8,8

6,3

6,95

6

Ca++

mg/l

20

88

85,4

86,1

7

Mg++

mg/l

20

17,1

15,9

16,2

8

Al+++

mg/l

20

0,093

0,070

0,076

9

Mn++

mg/l

20

0,510

0,420

0,442

10

Zn++

mg/l

20

0,1241

0,0063

0,0489

11

Pb++

mg/l

20

0,0025

0,0012

0,0015

Với kết quả phân tích này và dựa vào các công thức tính địa nhiệt kế của các tác giả nêu trên, ta tính được nhiệt độ của nguồn địa nhiệt như sau (trong đó các cation ở các công thức trên là nồng độ được tính bằng ppm):

- Theo Truesdell (1976) ta có khoảng nhiệt độ 100-2750C:


- Theo Tonari (1980):

- Theo Arnórsson (1983) cho 25-2500C:

 

- Theo Arnórsson (1983) cho 250-3500C:

 

- Theo Fournier (1979):

- Theo Nivea và Nieva (1987):

 

- Theo Giggenbachetal (1983):

 


Các kết quả tính địa nhiệt kể trên cho thấy nhiệt độ của dung dịch địa nhiệt ở dưới bể địa nhiệt thay đổi từ 112 đến 173oC, nghĩa là cao hơn nhiều so với nhiệt độ mà chúng ta đo được ở trên bề mặt hoặc trong lỗ khoan. Tuy nhiên, các giá trị nhiệt độ thu được thường khác nhau, do đó cần áp dụng các cặp nhiệt kế khác để có kết quả chính xác hơn. Trong phạm vi công trình này, chúng tôi lấy giá trị trung bình các kết quả tính toán trên là 145,3oC. Vậy, có thể kết luận rằng nhiệt độ của nguồn nước nóng này ở trong bể chứa địa nhiệt dưới sâu là 145,3oC. Trên thế giới, người ta phân loại tiềm năng các nguồn địa nhiệt dựa vào nhiệt độ của các dung dịch nhiệt ở các bể chứa. Theo đó, có 3 mức: cao – là các nguồn có nhiệt độ >180oC, trung bình – là các nguồn có nhiệt độ 100-180oC, và thấp – là các nguồn có nhiệt độ <100oC. Như vậy, nguồn địa nhiệt U Va (145,3oC) này được xếp vào loại nguồn có tiềm năng địa nhiệt trung bình.

IV. THẢO LUẬN VÀ KẾT LUẬN

Đới đứt gãy Điện Biên - Lai Châu là một đới có tiềm năng địa nhiệt quan trọng. Vùng nghiên cứu thuộc suối nước nóng U Va của tỉnh Điện Biên có trường địa nhiệt phân bố khá rộng, nhiệt độ biến đổi phức tạp với biên độ cao, tại điểm nước xuất lộ trên mặt cao nhất (760C) và nhiệt độ nguồn địa nhiệt dưới sâu có giá trị trung bình là 1450C.

Nguồn địa nhiệt liên quan chặt chẽ tới hoạt động của đới đứt gãy Điện Biên - Lai Châu và kế cận, trong đó đới đứt gãy sâu Điện Biên - Lai Châu (hướng gần bắc-nam) đóng vai trò cung cấp nhiệt, còn hệ thống đứt gãy hướng ĐB-TN khống chế bể chứa và xuất lộ nước nóng. Vùng nghiên cứu có địa hình kiểu lòng chảo, dọc theo đứt gãy đá bị dập vỡ mạnh, lớp trầm tích có bề dày lớn, khả năng lưu trữ nước cao. Lưu lượng nước của khu vực lớn và do đặc tính dập vỡ của đất đá trong khu vực nên khả năng phục hồi trữ lượng nhanh.

Các kết quả nghiên cứu trên và đối sánh với nhu cầu thiết kế sử dụng năng lượng địa nhiệt trên thế giới cho phép xác định vùng này có tiềm năng địa nhiệt trung bình (với nhiệt độ nguồn trung bình tại nguồn địa nhiệt U Va vào khoảng 145,3oC). Đây là cơ sở khoa học để xây dựng một nhà máy điện địa nhiệt ở quy mô nhỏ tại vùng này đảm bảo tận dụng tối đa tiềm năng địa nhiệt tại đây.

Cần nghiên cứu chi tiết hơn và kêu gọi đầu tư xây dựng nhà máy địa nhiệt tại đây, vừa đáp ứng nhu cầu tại chỗ, vừa phát triển sử dụng nguồn năng lượng sạch ở Việt Nam. Cần lưu ý là, đới đứt gãy Điện Biên - Lai Châu là đứt gãy hoạt động với tiềm năng sinh chấn cao. Do vậy, khi xây dựng nhà máy điện sử dụng năng lượng địa nhiệt cần tính đến nguy cơ động đất trong khu vực này. Cần nghiên cứu đánh giá tiềm năng địa nhiệt của các đứt gãy hoạt động khác trên lãnh thổ Việt Nam nhằm khai thác tối đa nguồn tài nguyên này.

Lời cảm ơn: Bài báo được hoàn thành với sự hỗ trợ kinh phí của đề tài QG-09-22 Đại học Quốc gia Hà Nội. Tập thể tác giả xin cảm ơn ThS. Trần Trọng Thắng (Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản), TS. Châu Văn Quỳnh (Liên đoàn Địa chất Thủy văn Miền Bắc) đã có những trao đổi khoa học quý báu.

VĂN LIỆU

1. Arnórsson S., Sigurdsson S., Svavarsson H., 1983. The chemistry of geothermal valley geothermal discharges, NW Himalaya, India. Geothermics, 12 : 198. New Dehli.

2. Chu Văn Ngợi (Chủ biên), 2006. Nghiên cứu các dạng cấu trúc địa chất làm cơ sở cho việc thẩm định và nâng cao mức độ an toàn hệ thống giao thông miền núi và trung du Việt Nam. Đề tài cấp Đại học Quốc gia QG05-29. Lưu trữ ĐHQG, Hà Nội.

3. Fournier R.O., 1979. Textbook for the geothermal energy. In: Koga A. (Editor), Hydrothermal geochemistry, Kyushu University, Japan, p. 1993.

4. Nguyễn Văn Hùng, Hoàng Quang Minh, 2005. Moving characteristics of the Lai Châu - Điện Biên Fault zone during Cenozoic. J. of. Geology, B/. Hà Nội.

6. Trần Đăng Tuyết (Chủ biên), 1978. Bản đồ Địa chất và Khoáng sản tỉ lệ 1/200.000. Tờ Điện Biên - Lai Châu, kèm theo thuyết minh. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Hà Nội.

7. Viện Địa chất, 2002. Báo cáo Địa chất đô thị Tây Bắc Bộ. Kết quả khảo sát bổ sung thị xã Điện Biên Phủ. Lưu trữ Viện Địa chất, Hà Nội.