HIỆN TƯỢNG HÓA THẠCH DI
THỪA
TRONG TRẦM TÍCH ĐEVON Ở BẮC BỘ*
TỐNG DUY THANH
Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên, 334 Nguyễn Trăi, Thanh Xuân, Hà Nội
Tóm tắt: Hiện
tượng di thừa của hoá thạch cổ trong các trầm
tích trẻ hơn đă được biết từ lâu
trong cổ sinh vật học và địa tầng học.
Ở Việt Nam, trong các trầm tích Đevon hạ, chúng ta
đă gặp những dạng đặc trưng cho trầm
tích Silur ở nhiều nơi trên thế giới. Trong hệ
tầng chứa phức hệ hoá thạch Euryspirifer
tonkinensis tuổi Đevon sớm (Praga) đă gặp nhiều
dạng điển h́nh cho tuổi Silur thuộc các giống
Holmophyllum, Evenkiella, Pholidophyllum, Rhyzophyllum, v.v.. Sự có mặt
những dạng này gây sự lúng túng cho việc định
tuổi trầm tích chứa chúng. Tuy vậy, phân tích sự
phong phú của phức hệ, đồng thời chú ư
đến mối quan hệ địa tầng của phức
hệ với các dạng hoá thạch biển khơi như
Dacryoconarida, Răng nón cho phép khẳng định những
dạng hoá thạch vừa nêu là những dạng di thừa
của Silur trong trầm tích tuổi Đevon sớm. Chú ư tới
sự phân bố các dạng hoá thạch đặc hữu
tuổi Silur muộn và Đevon sớm có thể vạch lại
sự di cư của những dạng đó từ Âu-Á qua
GIỚI THIỆU
Trầm tích
Đevon hạ ở Việt Nam rất phong phú hoá thạch,
nhất là các hệ tầng Mia Lé, Bản Nguồn, Nậm
Ṕa và những hệ tầng tương đương chứa
phức hệ Euryspirifer tonkinensis; sự phong phú này
đă giúp các nhà địa chất lư giải nhiều vấn
đề về cổ sinh, địa tầng, cổ
địa lư trong lịch sử phát triển địa chất
khu vực. Trong số hoá thạch phong phú của phức hệ
Euryspirifer tonkinensis, vai tṛ quan trọng thuộc về
các nhóm sinh vật bám đáy như Tay cuộn, San hô, sau
đó là Bọ ba thuỳ, Chân ŕu và các nhóm khác. Từ lâu hoá
thạch Tay cuộn đă đóng vai tṛ hàng đầu trong
định tuổi trầm tích Đevon không những ở
Việt
Vai tṛ của San hô
trong định tuổi Đevon được làm rơ trong
các nghiên cứu của H. Fontaine ở thập kỷ 50 và Tống
Duy Thanh từ thập kỷ 60 thế kỷ XX. Đáng
lưu ư là trong thành phần hai nhóm hoá thạch chủ yếu
này các dạng địa phương chiếm tỷ lệ
rất lớn, gây khó khăn đáng kể cho việc định
tuổi địa tầng chứa chúng. Trong khi đó, các dạng
đa khu vực lại thường là những loài đặc
trưng cho địa tầng ở những nơi rất
xa Việt Nam, tuy vậy, chúng thường được
coi như những hoá thạch chỉ đạo địa
tầng ở Việt Nam và Nam Trung Quốc. Do t́nh h́nh
đó, một thời gian dài các trầm tích Đevon hạ ở
Việt
Một vấn
đề cũng không kém phần gay cấn là trong các phức
hệ hoá thạch của Đevon hạ có mặt khá nhiều
dạng điển h́nh của Silur ở những nơi
khác của thế giới, trước hết là ở Tây
Âu, nơi cổ sinh vật học và địa tầng học
được nghiên cứu và phát triển rất sớm.
Điều này thể hiện trong các phức hệ
* Hưởng ứng việc biên soạn cuốn
Địa chất Việt Nam và “Năm quốc tế Hành
tinh Trái đất”, TCĐC cho đăng trong số này và
vài số tới các bài về địa chất khu vực
Việt Nam, đóng góp tài liệu cho công tŕnh nói trên (BBT.).
hoá thạch cá cổ
ở đầu Đevon hạ, nhưng rơ nét nhất là
trong phức hệ Euryspirifer tonkinensis tuổi Praga,
Đevon sớm. Hiện tượng này ban đầu
đă gây trở ngại cho việc định tuổi
địa tầng chứa các phức hệ hoá thạch,
nhưng đồng thời cũng gợi mở sự
nghiên cứu để có lư giải khoa học về sổ
sinh thái và cổ địa lư sinh vật và tiếp đó là
về lịch sử phát triển địa chất trong
Silur và Đevon ở khu vực Bắc Bộ của Việt
Nam.
I. TUỔI ĐEVON SỚM (PRAGA) CỦA
PHỨC HỆ Euryspirifer tonkinensis
Tuổi
của phức hệ Euryspirifer tonkinensis từng một
thời là đề tài tranh luận giữa các nhà nghiên cứu.
Trước những năm 70 của thế kỷ XX,
đa số các nhà địa chất coi phức hệ này
có tuổi
II. SAN HÔ DẠNG SILUR TRONG TRẦM TÍCH ĐEVON
Trong
trầm tích sét vôi ở vùng Yên Lạc (Na Ŕ, Bắc Kạn),
cùng với nhiều hoá thạch quen biết của San hô và
Tay cuộn thuộc phức hệ Euryspirifer tonkinensis,
c̣n có nhiều dạng hoá thạch khá đặc trưng cho
Silur ở những nơi khác trên thế giới. Đó
trước hết là những giống và loài San hô như Fossopora
yenlacensi, Entelophyllum aff. articum, Holmophyllum holmi,
Rhyzophyllum yenlacensis, Evenkiella sp., Pholidophyllum ex
gr. hedstromi, Cysticonophyllum sp., Glossophyllum aff.
primitivum. Dưới đây sẽ mô tả những dạng
điển h́nh nhất và phân tích ư nghĩa địa tầng
của những giống loài vừa kể trên đây.
PHÂN LỚP TABULATA
Họ Theciidae M. Edwards et Haime 1850
Giống Fossopora Etheridge R. J. 1903
Fossopora yenlacensis (Tong-Dzuy 1967)
H́nh
1: D, E, F, G
Holotyp: Mẫu 1/25. Bảo tàng Địa
chất Hà Nội. Phía bắc bản Khuổi Vạt 1 km,
huyện Na Ŕ, Bắc Kạn. Hệ tầng Mia Lé, tuổi
Praga, Đevon sớm.
Mô tả: Quần thể San hô dạng khối,
h́nh bán cầu, h́nh nấm, đôi khi dạng tấm. Kích
thước thường khoảng 5-6 cm, đôi khi tới
15 cm. Coralit có tiết diện đa giác, thường là lục
giác, mọc song song khi ở quần thể dạng tấm
và mọc tỏa tia khi ở quần thể dạng cầu,
bán cầu. Đường chéo của coralit dao động
từ 0,5 đến 0,9 mm, nhưng phần lớn là 0,7-0,8
mm.
Vách coralit thẳng, bề dày
thường 0,1 mm, nhưng có thể dao động từ
0,08-0,12 đến 0,2 mm; đường gian vách không quan sát
được.
Trong
mỗi coralit septa gồm 6 tấm dạng mào ngắn. Lỗ
thông rất phát triển, dạng tṛn hoặc h́nh trứng,
đường kính dạng tṛn khoảng 0,2 mm, trong khi
đó dạng trứng có kích thước 0,15-0,2 x 0,25-0,3 mm.
Chúng sắp xếp thành 1-2 dăy song song trên vách coralit với
khoảng cách đều 0,1-0,2 mm. Vách đáy nằm ngang, phẳng,
đôi khi hơi vơng hoặc nghiêng hoặc hơi uốn
lượn. Chúng thường hay sắp xếp trên cùng mức
trong nhiều coralit kề nhau. Nền trên mặt cắt dọc
của coralit có dạng lưới. Khoảng cách giữa
các vách đáy dao động từ 0,2 đến 0,5 mm.
So sánh và nhận xét: Họ Theciidae (bộ
Favositida) trong đó có giống Fossopora phân bố chủ
yếu trong Silur ở nhiều nơi trên thế giới.
Đặc trưng nhất của họ này là có cấu
trúc xương coralit tiết diện đa giác như các
đại biểu khác của bộ Favositida, nhưng có
septa dạng tấm chạy dọc suốt coralit, trong khi
các đại biểu khác có septa dạng gai. Trước
đây, các đại biểu của họ Theciidae thường
được coi là thuộc giống Thecia. Tuy nhiên, cấu
trúc septa của các đại biểu trong Theciidae có hai nhóm
phân biệt nhau rơ nét, nhóm thứ nhất có 12 tấm septa
như trong holotyp của giống Thecia, nhóm thứ hai
chỉ có 6 tấm septa và được Etheridge R. J. [5] phân
định thành giống Fossopora. Từ khi Etheridge R.
J. xác lập, giống Fossopora ít được nhắc
đến và các đại biểu của giống này vẫn
thường được coi nhầm là thuộc giống
Thecia. Leleshus V. L. [11] phát hiện các đại biểu
của Theciidae có 6 tấm septa và xác lập phân giống Neothecia
và mô tả loài Thecia (Neothecia) Devonica. Tống
Duy Thanh [15] cũng mô tả một dạng có 6 tấm septa
trong trầm tích Đevon hạ ở vùng Yên Lạc dưới
tên gọi “Thecia yenlacensis”. Ngoài những loài kể
trên, với cấu trúc xương nói chung và cấu trúc 6 tấm
septa th́ “Thecia minimorum Pocta” (Pocta 1902, Galle 1978) cũng
thuộc thuộc giống Fossopora và rất gần gũi
với Fossopora wellingtonensis Etheridge.
BỘ CYSTIPHYLLIDA Nicholson 1889
Họ Holmophyllidae Wang 1947
Holmophyllum holmi Wedekind 1927
H́nh
1: A, B, C
Holotyp: Holmophyllum holmi Wedekind
(Wedekind, 1927: 30-31). Silur, đảo Gothland.
Mô tả: San hô đơn thể, gần h́nh
trụ, đường kính San hô trưởng thành khoảng
20 mm. Septa cấu tạo từ những dạng sợi
trabecul dài xuất phát từ các mô bọt ngoại biên và mọc
hướng về phía trên. Chúng chỉ gắn liền nhau ở
phía ngoại biên của San hô, do đó trên mặt cắt
ngang chúng thể hiện thành dăy tỏa tia không đứt
quăng (H́nh 1A). Gai phát triển chủ yếu ở vùng mô bọt
ngoại biên của San hô, khá bụ, đôi khi đạt
đường kính tới 0,25-0,3 mm, trên mặt cắt dọc
của San hô quan sát được những gai dài tới 4
mm. Ở vùng trung tâm của San hô chúng ít gặp, thường
rất ngắn và mọc trực tiếp trên vách đáy.
Sự
xen kẽ của hai loại septa thể hiện không rơ,
trong những San hô có đường kính 18-20 cm có thể có
đến 86-90 septa.
Khoang
trong của San hô gồm hai đới rơ nét: đới ngoại
biên và đới trung tâm. Đới ngoại biên là đới
mô bọt gồm những dissepiment (dạng bọt) nhỏ,
hơi vồng và nghiêng, kích thước dưới 1 mm, chỉ
một số ít dissepiment tựa vào vách mới có thể
đạt tới kích thước 2,5-3 mm. Đới trung
tâm có đường kính bằng 2/5 đường kính của
San hô, gồm nhiều vách đáy nghiêng, tách lớp dạng
bọt đôi khi h́nh thành dạng búi.
So sánh và nhận xét. Cấu trúc của
San hô cũng như cấu trúc bộ xương đă mô tả
trên đây, đặc biệt là cấu trúc của septa dạng
tấm không liên tục, xác nhận dạng được
mô tả thuộc đại biểu điển h́nh của
loài Holmophyllum holmi. Điểm sai khác của các dạng
mô tả trên đây so với holotyp của loài chỉ thể
hiện ở số lượng septa nhiều hơn (86-90
thay v́ 70 ở holotyp). Điều này có thể lư giải là
các dạng được mô tả trên đây ở giai
đoạn trưởng thành hơn, nên số septa nhiều
hơn. Ở các dạng được mô tả nếu
quan sát trên mặt cắt ngang ở giai đoạn trẻ
hơn của San hô th́ số lượng septa cũng ít
hơn, thậm chí c̣n ít hơn số 70 ở holotyp.
Những
hoá thạch của Holmophyllum holmi được
phát hiện trong trầm tích Đevon hạ ở Yên Lạc
(Na Ŕ, Bắc Kạn) và lần đầu được
nhắc đến trong [15]. Khi đó, sự có mặt của
dạng hoá thạch điển h́nh của Silur trong trầm
tích Đevon là sự kiện lạ, nên chúng được
nhận dạng dưới tên gọi Holmophyllum ex gr. holmi.
Về sau, khi nghiên cứu chi tiết và trên cơ sở số
lớn hoá thạch San hô nên những dạng này đă
được khẳng định là các đại biểu
chính thức của Holmophyllum holmi (Nguyễn
Đức Khoa trong [4]: 93-94, Bản ảnh 22, h. 2a-b; [17]:
124-125, Bản ảnh LIII, H́nh 4, 5a-b).
Holmophyllum holmi là loài chuẩn của giống Holmophyllum
Wedekind, các đại biểu của giống này trước
đây vẫn được coi là điển h́nh của
Silur thượng, chỉ ở Trung Á lần đầu
tiên những đại biểu của giống này gặp trong
Đevon hạ [10].
Họ Goniophyllidae Dubowski 1873
Rhyzophyllum yenlacensis Tong-Dzuy 1988
H́nh
2: A, B, C, D, E, F
Holotyp: Rhyzophyllum yenlacensis Tong-Dzuy
1988. Mẫu 3-1/55II. Bảo tàng Địa chất. 6 Phạm
Ngũ Lăo. Hà Nội. Đevon hạ, bậc Praga. Yên Lạc,
huyện Na Ŕ, Bắc Kạn.
Mô tả. San hô đơn thể, dạng mũi
giầy (calceola), một mặt phẳng như đế
giầy, mặt kia khum vồng như phía mặt trên của
mũi giầy; kích thước nhỏ, chỉ khoảng
20-25 mm. Tiết diện ngang h́nh gần bán nguyệt, ở
vùng đài San hô tiết diện có bề cao khoảng 9-12 mm
và của rộng khoảng 18-22 mm. Vách ngoài (epitheca) thể
hiện khá rơ, trên bề mặt coralit quan sát rơ những
đường tăng trưởng ở dạng những
đường hằn song song, ở bề mặt phẳng
của San hô thuộc phần trên của coralit những
đường tăng trưởng này hơi uốn
lượn và thành dạng chữ V doăng. Góc đỉnh mũi
coralit (thực ra đây thuộc đáy San hô) ở holotyp là
52o, c̣n ở những dạng khác có thể nhọn
hơn (khoảng 45-46o).
Septa
dạng tấm, sít nhau và nhiều khi dính liền nhau tạo
thành một vành dày bao quanh coralit. Đáng chú ư là ở phần
giữa của bề mặt San hô phẳng có một septa lớn
và dài hơn hẳn các septa khác. Xoang trong của coralit gồm
nhiều vách đáy và mô bọt nghiêng và thô; nhưng ở phần
trên cùng của coralit chúng biến mất và xoang trở thành
rỗng, tạo thành một đài sâu dạng cốc.
So sánh và nhận xét: Dạng mô tả
trên đây là đại biểu của nhóm San hô
calceoloiđ, mang tính chất trung gian của Calceola và Rhyzophyllum.
Những
San hô có dạng ngoài tương tự và septa sít liền
nhau trước đây thường được xác
định và mô tả là Calceola sandalina L. [3, 4]. Tuy
nhiên, nhiều dạng đă được xác định
hoặc mô tả dưới tên gọi “Calceola” có lẽ
chỉ mới căn cứ trên h́nh thái bên ngoài của San
hô. Khi nghiên cứu cấu trúc xương trong th́ nhiều dạng
trong chúng không có những nét đặc trưng của Calceola.
Ở Calceola (dạng San hô khá đặc trưng của
Đevon) bộ xương không có mô bọt và vách đáy cũng
như septa đều phát triển rất yếu, trong khi
đó Rhyzophyllum (dạng San hô phổ biến của
Silur) lại có cấu trúc mô bọt rơ nét và vách đáy cũng
khá phát triển. Loài Rhyzophyllum yenlacensis được
mô tả trên đây có thể coi là một trường hợp
điển h́nh của Rhyzophyllum có dạng ngoài giống
với Calceola và có khả năng phần lớn những
dạng đă từng được xác định hoặc
mô tả dưới tên gọi Calceola cũng có thể
thuộc Rhyzophyllum.
III. NHỮNG DẠNG DI THỪA KHÁC TRONG ĐEVON HẠ
Bên
cạnh những loài được mô tả trên đây, một
số dạng San hô Silur khác cũng đă được
phát hiện trong mặt cắt Đevon hạ ở Bắc
Bộ như các giống Entelophyllum, Evenkiella,
Pholidophyllum, Cysticonophyllum v.v… Chúng đều là những
đại biểu của các giống San hô phổ biến
trong Silur ở nhiều nơi khác trên thế giới [6],
nhưng ở Việt Nam chúng lại có mặt đồng
thời trong phức hệ Euryspirifer tonkinensis đă
được định tuổi chính xác là Praga (Đevon
sớm).
Dẫn
liệu về các dạng Silur của nhóm hoá thạch bám
đáy khác trong Đevon hạ ở Việt
Các
dạng cá cổ cũng là trường hợp đáng chú ư
về sự phân bố địa tầng và cổ địa
lư của chúng. Từ nghiên cứu của người Pháp
cho đến công tŕnh do Dovjikov A.E. chủ biên [3], những
dạng hoá thạch cá cổ trong Đevon ở Bắc Bộ
đều được coi là ứng với Đevon
trung; t́nh h́nh tương tự cũng diễn ra ở Nam
Trung Quốc. Khi đó các hoá thạch cá Đevon ở Hoa
Tuổi
Đevon sớm của những dạng cá Đevon ở Bắc
Bộ được chứng minh rơ nét nhờ đối
sánh chúng với những phức hệ tương tự ở
Hoa
IV. HOÁ THẠCH DI THỪA LÀ KẾT QUẢ CỦA HIỆN TƯỢNG DI CƯ
Sự có mặt những dạng Silur trong các phức hệ hoá thạch Đevon sớm đă từng gây sự lúng túng trong việc định tuổi trầm tích chứa chúng, nhất là khi vắng mặt hoặc ít có hoá thạch khác đi cùng. Tác giả bài báo này cũng đă từng phân vân về hiện tượng này, đặc biệt trong trường hợp của các mặt cắt Đevon hạ ở Yên Lạc (Na Ŕ, Bắc Kạn). Tuy nhiên, tuổi của trầm tích chứa các dạng hoá thạch này được khẳng định nhờ sự phong phú hoá thạch của phức hệ Euryspirifer tonkinensis và hơn thế nữa nhờ các đới Răng nón và Dacryoconarida trong các lớp vôi silic phủ chỉnh hợp trên hệ tầng Mia Lé ở mặt cắt Đồng Văn - Nho Quế (Hà Giang).
H́nh 3. Hướng di cư
trong Silur muộn - Đevon sớm của san hô
Fossopora, Holmophyllum và Rhyzophyllum
Một
vài đồng nghiệp Châu Âu từng đặt vấn
đề với tác giả bài báo này là phải chăng có sự
lẫn hoá thạch từ trầm tích Silur vào sưu tập
hoá thạch Đevon hạ, hoặc có hiện tượng
tái trầm tích của hoá thạch Silur vào quần hệ xác
của hoá thạch Đevon hạ? Nhằm giải đáp
câu hỏi này, tác giả đă nhiều lần khảo sát
và thu thập lại hoá thạch ở các mặt cắt
Đevon ở vùng Yên Lạc. Kết quả của những
đợt khảo sát này cho thấy: 1) Không thể có
hiện tượng tái trầm tích những quần thể
San hô kích thước lớn và được bảo tồn
tốt như trường hợp của những San hô
được đề cập trong bài báo này. Hơn nữa,
cho đến nay chưa gặp các thể trầm tích
carbonat tuổi Silur chứa hoá thạch San hô trong cảc
vùng kế cận như Đông Bắc Bộ cũng
như ở Hoa
Di
cư là hiện tượng thường xẩy ra trong thế
giới sinh vật ngày nay, cũng như trong quá khứ
địa chất, và đă được làm sáng tỏ
trong sinh học và cổ sinh học. Có thể lư giải sự
có mặt của những dạng San hô Silur di thừa trong
Đevon sớm do hiện tượng di cư của tổ
tiên chúng từ biển Silur ở Châu Âu (như vùng đảo
Gothland) chuyển dần về hướng đông. Bằng
chứng của sự kiện này được xác nhận
qua sự phân bố của Holmophyllum trong Silur ở
Gothland, rồi phần thấp nhất của Đevon
(tương ứng bậc Lochkov) ở Trung Á [11] và tiếp
tục phân bố trong bậc Praga ở Việt
VĂN LIỆU
1. Brady S. J.,
2.
Bulvanker
E.Z., 1958. Đevonskie chetyrekhluchevye korally okraini Kuznetzkogo baseina. Trudy
VSEGEI,
3. Dovjikov A.E. (Chủ biên),
1965. Geologia Severnogo Vetnama (Địa chất miền Bắc
Việt
4. Dương Xuân Hảo
(Chủ biên), 1980. Hoá thạch đặc trưng ở
miền Bắc Việt
5. Etheridge R.J., 1903. Fossopora, a new genus
of Palaeozoic perforata corals.
6. Hill D., 1981. Treatise on
Invertebrate Paleontology. Part F. Coelenterata. Supplement 1: Rugosa and
Tabulata. Vol. 1, 2. Geol. Soc. of
7. Janvier Ph., Ta Hoa Phuong, 1999. Les
Vertébrés (Placodermi, Galeaspida) du Dévonien inférieur de la coupe de Lung Co
- Mia Le, province de Ha Giang, Vietnam. Geodiversitas, 21/1: 33-67.
8. Janvier Ph., Tống Duy
Thanh, 1998. The Silurian and Devonian Vertebrates of Việt
9. Janvier Ph., Tống Duy
Thanh, 1998. The Silurian and Devonian Vertebrates of Việt
10. Lavrusevich A.I., 1971. Rannedevonskie Rugozy
Zarafshano-Gissaryi. Novye dannye po geologyi Tadzhikistana. Tadzhikskoe
Geol. Upravlenie: 75-133.
11. Leleshus V.L., 1965. Novye
ranneđevonskie Tabulaty Yuzhnogo Tianshania. In Tabulatomorfnye Koraly
Ordovika i Silura SSSR. Nauka: 140-154. Moskva.
12.
13. Tống Duy Thanh, Janvier Ph.,
1991. Hoá thạch cá Đevon ở Việt
14. Tống Duy Thanh, Vũ
Khúc, Đặng Trần Huyên, Đoàn Nhật Trưởng,
Đỗ Bạt, Nguyễn Hữu Hùng, Phạm Huy Thông, Phạm
Kim Ngân, Tạ Ḥa Phương, Trần Hữu Dần, Trần
Tất Thắng, Trần Văn Trị, Trịnh Văn
Long, 2005.
Các phân vị địa tầng Việt
15. Tong-Dzuy Thanh, 1967. Les
Coelentérés du Dévonien au Vietnam. Partie I. Les Coraux Tabulatomorphes du
Dévonien au Nord Vietnam. Acta Sci. Vietnamicarum, Sectio Biologia, Geographia,
Geologia, III: 304 p.
16. Tong-Dzuy Thanh, Janvier Ph., 1987. Les
Vertébrés dévoniens du Vietnam. Annales Paléont, 73: 165-194.
17. Tong-Dzuy Thanh, Nguyen
Duc Khoa, Khromykh V. G., Nguyen Huu Hung, Ta Ḥa Phuong, Nguyen The Dzan, 1988.
Stratigrafia i tselenteraty Devona Vietnama. Tom 2. Tselenteraty. Nauka,
18. Tong-Dzuy Thanh, Janvier Ph., 1990. Les
Vertébrés du Dévonien inférieur du Bac Bo oriental (Province de Bac Thai et
Lang Son, Viet Nam). Bull.
Mus.
Nat.
d'Hist. Nat., C.12: 143-223.
19. Tong-Dzuy Thanh, Janvier Ph.,
1994. Early Devonian fishes from
Trang Xa (Bac Thai,
20. Tong-Dzuy Thanh, Janvier Ph., Ta Hoa Phuong,
Doàn Nhat Truong, 1995. Lower Devonian
biostratigraphy and vertebrates of the Tong Vai Valley, Vietnam. Palaeontology,
38/1: 169-186.