BẢO TÀNG ĐỊA CHẤT VỚI CÁC BỘ
SƯU TẬP MẪU VẬT MIỀN TÂY BẮC BỘ
NGUYỄN
MAI LƯƠNG
Bảo tàng Địa chất, 6 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội
Tóm tắt: Bảo tàng Địa chất tại Hà Nội được thành lập năm 1914. Tại đây trưng bày
các bộ mẫu địa chất theo ba chủ đề: Lịch sử địa chất Việt Nam và hành tinh của
chúng ta, Địa chất và khoáng sản Việt Nam và Các sưu tập chuyên đề. Bảo tàng
đang lưu giữ một khối lượng lớn mẫu vật địa chất, khoáng sản và cổ sinh vật của
nước ta, trong đó có khối lượng mẫu không nhỏ của miền Tây Bắc Bộ.
Bảo tàng Địa chất là
cơ quan lưu trữ quốc gia và trưng bầy các mẫu vật địa chất và khoáng sản của
nước ta. Bảo tàng đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp là Bảo tàng hạng I quốc
gia. Với số lượng mẫu hiện có và quy mô trưng bầy, hình thức thể hiện, Bảo tàng
Địa chất đã có nhiều đóng góp quan trọng trong đào tạo, phổ biến kiến thức cho
học sinh, sinh viên, khách tham quan trong và ngoài nước cũng như công tác
nghiên cứu của các nhà địa chất trong nước và quốc tế.
Trong bài báo này xin giới thiệu một số sưu tập mẫu vật địa chất và khoáng
sản miền Tây Bắc Bộ ở Bảo tàng Địa chất và đề xuất một số công việc để phát
triển, nâng cao chất lượng của các mẫu vật
Miền Tây Bắc Bộ có một lịch sử phát triển địa chất lâu dài, có cấu trúc địa
chất rất phức tạp, gồm các thành tạo từ Tiền Cambri đến Đệ tứ. Trong khu vực này
phân bố đa dạng các thành tạo địa chất và phát triển nhiều hệ thống phá hủy kiến
tạo và hoạt động magma xâm nhập có thành phần và tuổi khác nhau. Chính sự phức
tạp của cấu trúc địa chất đó đã tạo ra sự phong phú và đa dạng của các loại hình
khoáng sản. Tại Bảo tàng Địa chất đang lưu giữ một số sưu tập mẫu vật địa chất
của miền Tây Bắc Bộ thu thập trong nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi bộ sưu tập mẫu
địa chất, khoáng sản là kết quả của một công trình địa chất do các nhà địa chất
thu thập trong quá trình thực hiện công tác điều tra cơ bản về địa chất và tìm
kiếm khoáng sản. Trong đó đáng kể là:
+ Bộ sưu tập địa tầng đới Sông Hồng của tác giả Phạm Đình Long, Đoàn Địa
chất 20, năm 1960-1963: gồm các mẫu thạch học đặc trưng cho các phân vị địa tầng
thuộc đới Sông Hồng được phân chia thời đó. Trong số đó có nhiều mẫu vật của
phức hệ đá biến chất cổ Sông Hồng, các đá tuổi Đevon và Jura.
+ Bộ sưu tập địa tầng đới Phan Si Pan của tác giả Bùi Phú Mỹ, Đoàn Địa chất
20, năm 1960-1963: gồm các mẫu đá của các tầng đá phiến kết tinh Tiền Cambri,
nhóm các mẫu vật của hệ tầng Cam Đường chứa apatit nổi tiếng ở Đông Nam Á, các
mẫu vật có tuổi từ Paleozoi đến Creta.
+ Bộ sưu tập địa tầng đới Sông Đà của tác giả Bùi Phú Mỹ, Đoàn Địa chất 20,
năm 1960-1963, gồm các mẫu đá có tuổi: C2-P, T1-2, T2, T2-3 và
T3n-r.
+ Bộ sưu tập địa tầng đới Sơn La của tác giả Bùi Phú Mỹ, Đoàn Địa chất 20,
năm 1960-1963, gồm các mẫu đá có tuổi : D2e, D2e-gv, C1, C2-P, T1-2, T2l
và T2-3.
+ Bộ sưu tập địa tầng đới Sông Mã của tác giả Bùi Phú Mỹ, Đoàn Địa chất 20,
năm 1960-1963 gồm các mẫu có tuổi: Pt, e3-O, O3-S1, D2e, D2e-gv.
+ Bộ sưu tập địa tầng đới Tú Lệ của tác giả Bùi Phú Mỹ, Đoàn Địa chất 20,
năm 1960-1963, gồm các mẫu đá có tuổi J và J2.
+ Bộ sưu tập địa tầng đới Mường Tè của tác giả Bùi Phú Mỹ, Đoàn Địa chất 20,
năm 1960-1963, gồm các mẫu đá có tuổi: D2e, D2e-gv, T2-3 và J.
+ Bộ sưu tập địa tầng đới Điện Biên Phủ của tác giả Bùi Phú Mỹ, Đoàn Địa
chất 20, năm 1960-1963, gồm các mẫu đá có tuổi: C2-P, P2-T1, T3n-r, J1,
K.
Các sưu tập mẫu nêu trên là một phần kết quả quan
trọng của công trình điều tra, lập bản đồ địa chất tỉ lệ 1:500.000 miền Bắc Việt
Nam.
+ Bộ sưu tập mẫu đá và quặng của mỏ asbest Suối Cẩn của Đoàn Địa chất 57.
+ Bộ sưu tập địa tầng và quặng sắt Ba Hòn - Làng Lếch của Đoàn Địa chất 50,
năm 1972, gồm một số mẫu magnetit, hematit và một số mẫu địa tầng khu mỏ sắt Ba
Hòn - Làng Lếch.
+ Bộ sưu tập mẫu địa tầng và quặng sắt Quý Xa của Đoàn Địa chất 50, năm
1972, gồm một số mẫu pyrit, limonit, goethit và một số mẫu địa tầng khu mỏ Quý
Xa.
+ Bộ sưu tập mẫu tại mỏ đồng Sinh Quyền của Đoàn Địa chất 5, năm 1972, gồm
nhiều mẫu quặng đồng, các đá biến đổi chứa quặng và các mẫu đá của hệ tầng Sinh
Quyền.
+ Bộ sưu tập mẫu tại mỏ sắt Bảo Hà của Đoàn Địa chất 50, năm 1975, gồm quặng
sắt các loại và các mẫu địa tầng khu mỏ Bảo Hà.
+ Sưu tập mẫu apatit Cam Đường của Liên đoàn Địa chất 3 sưu tầm năm 1980,
gồm các mẫu quặng apatit đại diện cho quặng loại I, II, III của mỏ.
+ Sưu tập đá carbonatit - đất hiếm Nậm Xe của Liên đoàn Địa chất 10 gồm các
mẫu fluorit, quặng đất hiếm và urani.
+ Sưu tập mẫu graphit Lào Cai của Đoàn Địa chất 24, năm 1962: gồm mẫu
graphit và mẫu đá phiến chứa graphit.
Các bộ sưu tập này được thu thập trong quá trình
tìm kiếm thăm dò các mỏ và tụ khoáng miền Tây Bắc Bộ. Các mỏ và tụ khoáng này là
nguồn tài nguyên quan trọng để phát triển kinh tế của Tây Bắc Bộ hiện nay và
trong các thập kỷ tiếp theo.
+ Sưu tập mẫu địa tầng tờ Hòa Bình - Tân Lạc của tác giả Trần Xuyên, năm
1983 gồm các mẫu đá của các hệ tầng Suối Bàng, Sông Bôi, Nậm Thẳm, Đồng Giao, Cò
Nòi, Cẩm Thủy, Mó Tôm, Bản Nguồn, Sông Mua, Sinh Vinh, các phức hệ magma Kim Bôi
và Ba Vì.
+ Sưu tập mẫu địa tầng và khoáng sản tờ Vạn Yên của tác giả Nguyễn Công
Lượng, năm 1992, gồm các mẫu đá và quặng trên diện tích tờ bản đồ địa chất Vạn
Yên tỷ lệ 1:50.000.
Ngoài ra còn một số sưu tập mẫu mới được nhận về
Bảo tàng Địa chất sau khi kết thúc các báo cáo địa chất; đó là các sưu tập mẫu
địa chất, khoáng sản và cổ sinh vật nhóm tờ Lào Cai, địa tầng magma và khoáng
sản nhóm tờ Tuần Giáo tỷ lệ 1:50.000.
+ Sưu tập mẫu nephrit-jađeit Cò Phương, Sơn La của tác giả Trần Ngọc Cường,
năm 1992.
+ Sưu tập đá quý vùng Lục Yên của tác giả Ngô Văn Nghiêm năm 1993, gồm các
mẫu rubi, saphir và corinđon ở vùng Lục Yên.
Hai bộ sưu tập mẫu này là các kết quả điều tra
vùng đá quý Lục Yên và đá ngọc jađeit ở Tây Bắc Bộ. Các mẫu vật này có ý nghĩa
thực tế rất cao và ý nghĩa khoa học quan trọng, làm cơ sở để tiếp tục điều tra
phát hiện đá quý ở Tây Bắc Bộ.
Tại Bảo tàng Địa chất cũng đang lưu giữ một số mẫu cổ sinh vật miền Tây Bắc
Bộ thuộc một số ngành và lớp như Tay cuộn, Cúc đá, Chân rìu, San hô, Thực vật...
Thông qua các chủ đề và đề tài trưng bày, Bảo tàng Địa chất đã giới thiệu
được bức tranh chung về địa chất và khoáng sản miền Tây Bắc Bộ. Ngoài chức năng
giúp các nhà địa chất tham khảo, đối sánh các loại mẫu trong quá trình thực hiện
các nhiệm vụ điều tra địa chất khoáng sản, các sưu tập mẫu này là bộ giáo cụ
trực quan cho các học sinh phổ thông và sinh viên học về địa chất học.
Các bộ sưu tập mẫu miền Tây Bắc Bộ hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Địa chất
tương đối đa dạng và phong phú, tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng
cao của học sinh, sinh viên, khách tham quan trong nước và quốc tế, cũng như
việc nghiên cứu của các nhà địa chất trong và ngoài nước về địa chất Tây Bắc Bộ,
tác giả có một số nhận xét và đề xuất như sau:
+ Hầu hết các bộ sưu tập mẫu vật của các phân vị địa
tầng, magma được thu thập từ những năm 1960 trong quá trình lập bản đồ địa chất
miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1:500.000. Các bộ mẫu này tuy nhiều và đa dạng, nhưng tư
liệu hồ sơ của một số mẫu lại không đầy đủ, như vị trí lấy mẫu còn chưa chính
xác hoặc sự phân chia địa tầng đã có thay đổi
+ Về các mẫu khoáng sản: các sưu tập lưu giữ tại Bảo
tàng chưa tương xứng với tiềm năng khoáng sản của miền Tây Bắc Bộ, chưa đầy đủ
để đại diện cho các kết quả điều tra trong thời gian qua.
Để nâng cao chất lượng phục vụ các nhà nghiên cứu, học
sinh, sinh viên, khách tham quan, nên tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các sưu tập
mẫu, cụ thể là:
+ Hoàn thiện các bộ sưu tập mẫu vật địa chất hiện đang
lưu giữ tại Bảo tàng Địa chất: kiểm tra và hiệu chỉnh cho chính xác tên, tuổi,
vị trí lấy mẫu, kết quả phân tích đối với các mẫu...
+ Thu thập bổ sung các mẫu vật để đủ đại diện cho các
phân vị địa chất đã có thay đổi hoặc mới phân chia trong quá trình điều tra địa
chất khoáng sản trong thời gian gần đây như hệ tầng Viên Nam, các đá núi lửa
vùng Tú Lệ, các đá amphibolit vùng Nậm Sư Lư, các đá núi lửa hệ tầng Sông Đà,
các mẫu hóa thạch và các loại mẫu khác.
+ Thu thập các mẫu khoáng sản đặc trưng, trong đó lưu ý
bổ sung các mẫu vật từ mỏ đồng Sin Quyền hiện đang được khai thác, các mẫu quặng
vàng ở vùng Văn Bàn, Lương Sơn, quặng Cu-Ni ở Tạ Khoa, quặng đồng ở Sìn Hồ,
quặng felspat, đá quý rubi-saphir trong đới Sông Hồng.
+ Trong thời đại của công nghệ thông tin ngày nay, rất
nên ứng dụng công nghệ GIS trong công tác lưu trữ và tra cứu mẫu Bảo tàng Địa
chất.
Trong khuôn khổ của bài báo này, tác giả cố gắng trình bày hiện trạng về các sưu tập mẫu địa chất và khoáng sản ở Tây Bắc Bộ
và đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng, ý nghĩa khoa học, thực tế của
hệ thống mẫu vật tại Bảo tàng Địa chất. Tác giả xin chân thành cám ơn Giám đốc
Bảo tàng Địa chất Nguyễn Việt Hưng, TS. Trần Tất Thắng và GS.TSKH. Đặng Vũ Khúc
đã giúp tác giả hoàn thành bài báo này.
VĂN LIỆU
1. Ambrose T., 2000. Bảo tàng với sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Bảo tàng Cách mạng
Việt Nam, Hà Nội.
2. Nguyễn Mai Lương, 2001. Bảo tàng Địa chất tại Hà Nội.
TC Địa chất. A/262 : 27-31, Hà Nội.
3. Nguyễn Việt Hưng (Chủ biên), 2001. Báo cáo Nghiên cứu và nâng cao chất lượng
khoa học các bộ sưu tập mẫu vật của Bảo tàng Địa chất. Lưu trữ
Địa chất, Hà Nội.
4. Trần Văn Trị (Chủ biên), 2000. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam. Cục
ĐC&KSVN, Hà Nội
5. Trịnh Dánh (Chủ biên), 2000.
Báo cáo Trưng bày mẫu vật và các mô hình về địa chất và khoáng sản tại Bảo tàng
Địa chất. Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.