TRẦM TÍCH ĐEVON Ở ĐỚI QUẢNG NINH
NGUYỄN HỮU HÙNG1, TẠ HOÀ PHƯƠNG2, NGUYỄN THỊ THUỶ1
1Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản,
Thanh Xuân, Hà Nội
2Đại
học Khoa học Tự nhiên, Nguyễn Trăi, Thanh Xuân, Hà Nội
Tóm tắt: Trên cơ sở những tài liệu mới
về thạch học, địa tầng và cổ sinh, trầm
tích Đevon ở đới Quảng Ninh được
phân thành các phân vị địa tầng sau:
1. Loạt Ngọc
Vừng: gồm các hệ tầng Vạn Cảnh, Dưỡng
Động. Ranh giới dưới của loạt không xác
định được. Ranh giới trên không chỉnh hợp
dưới hệ tầng Đồ Sơn.
1.1. Hệ tầng Vạn Cảnh: chủ
yếu gồm cát kết, bột kết chứa di tích cá cổ,
Eurypterida và thực vật Taeniocrada? cf. decheniana, Psilophytites? sp., tuổi Lochkov-Praga, lộ trên bán đảo Đồ
Sơn và các đảo Vạn Cảnh, Ngọc Vừng,
Phượng Hoàng, Cống Đông, Cống Tây, Đống
Chén, Trà Bàn ở vùng vịnh Bái Tử Long.
1.2. Hệ tầng Dưỡng Động:
nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Vạn Cảnh,
chủ yếu gồm đá phiến sét và bột kết chứa
hoá thạch Tay cuộn, San hô, Huệ biển thuộc các phức
hệ Eoschuchertella -
Howellella và Desquamatia - Schizophoria, ứng
với khoảng Emsi-Eifel, lộ ở các vùng Kinh Môn, Tràng
Kênh, Thuỷ Nguyên và trên các đảo Vạn Cảnh, Ngọc
Vừng, Phượng Hoàng, Cống Đông, Cống Tây,
Đống Chén, Trà Bàn ở vùng vịnh Bái Tử Long.
2. Hệ tầng
Đồ Sơn: nằm không chỉnh hợp trên các hệ
tầng Dưỡng Động và Vạn Cảnh, gồm
cuội kết, sạn kết, cát kết phân lớp xiên chứa
hoá thạch cá Bothriolepis và các di tích thực vật
Lepidodendropsis tuổi Givet. Chúng lộ trên bán đảo
Đồ Sơn và các đảo Quán Lạn, Ngọc Vừng,
Phượng Hoàng, Cống Đông, Cống Tây, Đống
Chén, Trà Bàn ở vịnh Bái Tử Long.
3. Hệ tầng Tràng Kênh: gồm đá vôi chứa các phức hệ
San hô, Lỗ tầng, Răng nón tuổi Givet muộn - Famen
sớm. Chúng lộ ở các vùng Kinh Môn, Thuỷ Nguyên, Tràng
Kênh, Đường 10 (Kiến An) và các đảo ở vịnh
Bái Tử Long và Hạ Long. Hệ tầng nằm chỉnh hợp
trên hệ tầng Đồ Sơn và không rơ dưới các
trầm tích Famen thượng - Carbon sớm. Theo quan niệm
trước đây trong thành phần của hệ tầng
Tràng Kênh c̣n có đá vôi chứa các ổ silic ở Pháp Cổ,
Phi Liệt, Đ̣ Đụn (huyện Thuỷ Nguyên, Hải
Pḥng); nay chúng được được coi thuộc hệ
tầng Phố Hàn (D3-C1 ph).
MỞ ĐẦU
Sự có mặt của
các trầm tích Đevon trong đới Quảng Ninh [23] thuộc
địa phận các tỉnh Hải Dương, Quảng
Ninh và thành phố Hải Pḥng đă được đề
cập đến trong nhiều công tŕnh nghiên cứu địa
chất. Từ những phát hiện ban đầu của
H. Lantenois [8] ghi nhận sự có mặt của các trầm
tích trước Carbon và sự phân chia có tính khái quát các trầm
tích Eifel tướng lục nguyên và các trầm tích Eifel -
Givet tướng carbonat của Jamoida A.I. [3] đă đi
đến việc phân chia chi tiết ra các phân vị địa
tầng: điệp Kiến An (S2 ka), điệp
Sông Giá, tầng Dưỡng Động (D2e dđ),
Tràng Kênh (D2gv tk) của Nguyễn Quang Hạp
[13]; điệp Yên Phụ (D2e yp), điệp
Lỗ Sơn (D2-3? ls) của Phạm Văn
Quang [15]; điệp Sông Cầu (D1sc) của
Trần Văn Trị, Nguyễn Đ́nh Uy [23], Trần
Văn Trị và nnk.
[24]; điệp Đồ Sơn (D1 đs) của
Nguyễn Công Lượng [11]; hệ tầng Si Ka (D1
sk) của P. Janvier và nnk. [4,5]. Ở đây có thể dễ nhận
thấy sự không thống nhất trong cách phân chia các phân
vị địa tầng. Cùng một đối tượng
là đá lục nguyên, Nguyễn Quang Hạp [13] gọi là tầng
Dưỡng Động, trong khi đó Phạm Văn Quang
[15] gọi là điệp Yên Phụ v.v.... Tuổi của hệ
tầng Đồ Sơn, từ chỗ chỉ coi là
Đevon sớm: Trần Văn Trị, Nguyễn Đ́nh Uy
[23], P. Janvier và nnk. [4] đến việc xếp hệ tầng
Đồ Sơn vào Givet - Đevon muộn: J. Long và nnk. [9],
Tống Duy Thanh và nnk. [20] hoặc D3-C1: Ngô
Quang Toàn [10]. Vị trí địa tầng của hệ tầng
Đồ Sơn cũng có những ư kiến khác nhau,
như nằm trên hệ tầng Tràng Kênh: J. Long và nnk. [9], nằm
trên hệ tầng Dưỡng Động: Tống Duy
Thanh, Tạ Hoà Phương [22]. Thành phần trầm tích của
hệ tầng Tràng Kênh cũng cần được xem xét
lại. Phần lớn các nhà nghiên cứu [1, 13, 14, 20] đều
cho rằng, tập silic chứa Trùng tia, đá vôi chứa
các ổ silic lộ ra ở dải Pháp Cổ - Phi Liệt
- Đ̣ Đụn thuộc phần giữa của hệ tầng
Tràng Kênh. Đó là những vấn đề không b́nh thường
trong một hệ tầng, nếu xét về sự tiến
hoá của bồn trầm tích.
Những tài liệu đo vẽ
chi tiết các mặt cắt sinh địa tầng và những
phát hiện mới về cổ sinh qua các đề tài
"Nghiên cứu cổ sinh địa tầng và tướng
đá cổ địa lư các thành tạo trầm tích D3-C1
Bắc Việt Nam" (1999 - 2001); "Địa tầng
các trầm tích Phanerozoi ở Đông Bắc Việt Nam"
(2004 - 2006) đă góp phần làm rơ hơn về trật tự
địa tầng, bối cảnh cổ địa lư của
các thành tạo trầm tích Đevon trong đới Quảng
Ninh.
1. Về
hệ tầng Đồ Sơn
Các thành tạo Đevon trong đới
Quảng Ninh lần đầu tiên được Lantenois
H. [8] mô tả dưới tên gọi “Cát kết Đồ
Sơn”, tuổi trước Carbon, chứa hoá thạch
2. Về
hệ tầng Dưỡng Động
Theo mô tả ban đầu của
Nguyễn Quang Hạp [13], hệ tầng gồm 6 tập, bắt
đầu bằng các tập cuội, sạn, cát kết;
chuyển dần lên là bột kết, cát kết phân lớp
xiên chứa cuội, kết thúc bằng tập bột kết
xen cát kết và đá phiến sét với tổng bề dày
800-1000 m, chứa hoá thạch Tay cuộn, San hô tuổi Eifel,
lộ ở một số vùng thuộc huyện Thủy
Nguyên, Tp. Hải Pḥng và huyện Kinh Môn, tỉnh Hải
Dương. Ranh giới dưới với hệ tầng
Kiến An (S2 ka) không rơ, ranh giới trên chuyển
tiếp lên hệ tầng Tràng Kênh (D2 tk).
Phạm Văn Quang [15] không công nhận
tên gọi “tầng Dưỡng Động” và đưa ra
tên gọi “điệp Yên Phụ” (D2e yp) gồm
hai phụ điệp: phụ điệp dưới có chiều
dày 150 - 220 m, gồm cát kết thạch anh, cát kết xen bột
kết, đá phiến sét; phụ điệp trên gồm chủ
yếu đá phiến sét-sericit xen kẽ cát bột kết,
dày 300 - 380 m. Tổng bề dày của điệp Yên Phụ
là 350 - 600 m.
Nguyễn Công Lượng [11] cho rằng
điệp Yên Phụ lộ cả trên các đảo Trà Bản,
Châu Dấp, Ngọc Vừng, Lũ Con, Vạn Sao, Lộc Dữ,
Thừa Cống ở vùng vịnh Bái Tử Long, chiếm diện
tích 100 - 124 km2. Các công bố sau này của Tống
Duy Thanh và nnk. [20, 21]; Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ [25]; Tạ Hoà
Phương và nnk. [19] coi "điệp Yên Phụ" là
đồng nghĩa với hệ tầng Dưỡng
Động và đưa lại những nội dung cơ bản
của hệ tầng đă được Nguyễn Quang Hạp
[13], Phạm Văn Quang [15] và Nguyễn Công Lượng [11]
mô tả, đồng thời có bổ sung một số tài
liệu về cổ sinh mới được phát hiện
trong thời gian gần đây. Riêng về vị trí địa
tầng, Tống Duy Thanh, Tạ Hoà Phương [22] cho là hệ
tầng Dưỡng Động nằm dưới hệ
tầng Đồ Sơn.
Chúng
tôi đă tiến hành nghiên cứu lại mặt cắt Hiệp
Sơn Hạ (Hiệp Hạ) nơi được coi là có
mặt cắt chuẩn của hệ tầng Dưỡng
Động, cũng như các mặt cắt khác ở vùng
Kinh Môn, tỉnh Hải Dương; vùng Thuỷ Nguyên, Tp. Hải
Pḥng và các đảo trong vịnh Bái Tử Long thuộc tỉnh
Quảng Ninh. Kết quả nghiên cứu mới cho thấy,
các mặt cắt của hệ tầng Dưỡng Động
thường bắt đầu bằng tập đá phiến
sét chứa hoá thạch Tay cuộn, San hô, Huệ biển cho
tuổi D1-D2, đặc trưng cho tướng
biển nông. Các tập cuội kết, sạn kết, cát kết
phân lớp xiên chỉ gặp ở phần trên của mặt
cắt, nay được chúng tôi coi thuộc hệ tầng
Đồ Sơn, đặc trưng cho tướng sông, suối
và tam giác châu.
3. Về
hệ tầng Tràng Kênh
Hệ tầng này do Nguyễn Quang
Hạp [13] xác lập và mô tả dưới tên gọi “tầng
Tràng Kênh” với 2 phụ tầng. Phụ tầng dưới
gồm 4 lớp:
Lớp 1. Đá vôi sinh vật có kiến trúc giả trứng
cá, lộ ra ở nam làng Hạ Chiểu. Dày 70-80 m.
Lớp 2. Đá vôi màu đen, hạt mịn, chứa
nhiều di tích hữu cơ, kiến trúc giả trứng
cá. Dày 50 m.
Lớp 3. Đá phiến silic màu đen, kiến trúc hạt
ẩn tinh, lộ thành dải chạy dài từ Tràng Kênh qua
Thụy Khê, Phà Đụn tới Hạ Chiểu. Dày 100 -
120 m.
Lớp 4. Đá vôi chứa sét, hạt mịn và chứa
nhiều di tích hữu cơ. Dày 20 - 40 m.
Bề dày toàn bộ của phụ
tầng dưới là 250 - 280 m. Theo tác giả, phụ tầng
dưới chứa hoá thạch Syringopora cf. eifeliensis
Schl., Amphipora cf. ramosa Phil., Crassialveolites
crassus Lec. cho tuổi
Phạm Văn Quang [15] mô tả một
mặt cắt tương tự, nhưng đưa ra một
tên gọi mới là “điệp Lỗ Sơn” với thành
phần gồm 4 tập, tương ứng với 4 lớp
như mô tả của Nguyễn Quang Hạp [13] và cho tuổi
D2gv - D3?.
Dương Xuân Hảo, Nguyễn
Thơm, Nguyễn Đức Khoa [1] và Dương Xuân Hảo
[23] coi hệ tầng thuộc bậc Givet với thành phần
trầm tích gồm 3 phần: phần dưới gồm
đá vôi đen chứa hoá thạch Lỗ tầng và San hô tuổi
Givet, dày 150 m; phần giữa gồm chủ yếu đá
phiến silic, chứa Trùng tia, dày 50 m; phần trên gồm
đá vôi phân lớp dày chứa Lỗ tầng và San hô tuổi
Givet. Nằm không chỉnh hợp lên trên là đá vôi Carbon -
Permi.
Tống Duy Thanh và nnk. [20] công nhận
tên gọi “điệp Lỗ Sơn” cho các trầm tích Givet
lộ ra ở đây với thành phần thạch học
và trật tự địa tầng như mô tả của
Dương Xuân Hảo, Nguyễn Thơm và Nguyễn Đức
Khoa [1], nhưng nằm chỉnh hợp trên “điệp Lỗ
Sơn” c̣n 300 m đá vôi của Đevon thượng có chứa
hoá thạch Lỗ tầng Amphipora laxeperforata Lec., A.
patokensis minor (Riab.) và Trùng lỗ Quasiendothyra.
Ngô
Quang Toàn và nnk. [10] cho rằng tập silic được mô
tả ở phần giữa của “điệp Lỗ
Sơn” thuộc thành phần trầm tích của hệ tầng
Phố Hàn (D3-C1 ph), một phân vị
địa tầng mới của Bản đồ địa
chất và khoáng sản 1:50.000 nhóm tờ Hải Pḥng. Nguyễn
Hữu Hùng và nnk. [12] đă dẫn ra nhiều mặt cắt
khác nhau của hệ tầng Tràng Kênh kể cả trên
đất liền và trên các đảo ở vịnh Hạ
Long và Bái Tử Long và đă đưa đến kết luận:
ngoài các yếu tố Givet và Frasni sớm, c̣n có các yếu tố
của Frasni giữa - muộn và Famen.
II. NHỮNG SỬA ĐỔI VỀ ĐỊA TẦNG ĐEVON TRONG ĐỚI QUẢNG NINH
1. Loạt
Ngọc Vừng (D1-D2 nv)
Trong bài báo này, loạt Ngọc Vừng
được xác lập để chỉ một loạt
trầm tích lục nguyên h́nh thành trong một chu kỳ trầm
tích từ Lochkov của Đevon sớm đến
a. Hệ tầng Vạn Cảnh
(D1 vc)
Hệ tầng
lộ trên các đảo Ngọc Vừng, Vạn Cảnh, Cống
Đông, Cống Tây, Phượng Hoàng, Thẻ Vàng, Đống
Chén (đảo Dài), Vạn Dưới, Châu Dấp, Trà Bản
ở vùng vịnh Bái Tử Long và trên bán đảo Đồ
Sơn, được coi thuộc phần thấp nhất
của mặt cắt Đevon trong đới Quảng Ninh.
Mặt cắt bờ tây đảo Vạn Cảnh (H́nh 1.2)
được chọn làm mặt cắt chuẩn cho hệ
tầng. Bắt đầu từ bờ phía đông sườn
núi Sơn Tàu trên bờ tây đảo Vạn Cảnh (F. 609;
x = 20o52'22'' B; y = 107o20'14'' Đ),
cách bến tàu khách Ngọc Vừng 3,5 km về phía B-TB, sát
mép nước biển, lộ liên tục nhưng khá
đơn điệu các lớp bột kết màu xám vàng,
phân lớp mỏng xen kẽ gần như luân phiên với
các lớp cát kết màu xám trắng, phân lớp cỡ 10 -
20 cm. Đá có thế nằm thoải (30o) cắm về
phía T-TB (280o) và lộ liên tục trên quăng gần 1
km. Trong tất cả các lớp cát kết, bột kết của
hệ tầng, đều phát hiện được thực
vật thuỷ sinh Taeniocrada? cf. decheniana, Psilophytites ? sp. Bề dày của
hệ tầng ở mặt cắt này ước tính >200
m. Nằm trên với thế nằm chỉnh hợp là các lớp
đá phiến sét vôi xen bột kết vôi, chứa hoá thạch
Trên đảo Ngọc Vừng, mặt
cắt tốt nhất của hệ tầng lộ dọc
theo đường ô tô từ bến tàu khách Ngọc Vừng
về trung tâm xă Ngọc Vừng (H́nh 1.1), gồm bột kết
màu xám, phong hoá có màu đỏ nâu xen các lớp cát kết màu
xám. Đá cắm về phía TN, góc dốc khoảng 40-45o.
Tại điểm lộ F.603 (x = 20o50’49” B; y = 107o20’36”
Đ), cách cảng Ngọc Vừng 200 m về phía nam, vách
bên phải đường ô tô, lộ ra các vỉa dày đặc
hoá thạch thực vật thuỷ sinh Taeniocrada? cf.
decheniana, Psilophytites ? sp.. Ngoài ra, trong các lớp cát kết
c̣n thu thập được các di tích cá?, Lingula và Chân
ŕu. Bề dày >200 m.
Trên đảo Cống Tây, sau trụ
sở UBND xă Thắng Lợi, trong bột kết màu xám xanh,
xám trắng lộ ở vách núi, đă thu thập được
di tích Eurypterid bảo tồn xấu và thực vật thuỷ
sinh Psilophytites ? sp. (F.604; x = 20o53'09'' B; y =
107o18'51'' Đ). Tại bờ cực nam của
đảo Cống Đông (F.607; x = 20o53'09'' B; y =
107o18'51'' Đ), trong cát kết lộ sát mép nước
biển, đă thu thập được thực vật
thuỷ sinh Taeniocrada? sp.. Bề dày của hệ tầng
ở hai mặt cắt này quan sát được >200 m.
Trên đảo Châu Dấp (H́nh
1.3), đoạn nối liền với mỏm tây nam của
đảo Trà Bản, lộ ra các lớp cát kết, bột
kết chứa vôi màu xám trắng, phân lớp trung b́nh đến
dày, cắm về phía B-TB (340o), góc dốc 45o.
Trên vách phải đường ô tô mới mở, cách
Văn pḥng Công ty Nuôi trồng Thuỷ sản Mỹ-Việt
100 m về phía tây nam, đă thu thập được các di
tích cá cổ và rất phong
phú các di tích Chân ŕu, Chân bụng và Chân đầu kiểu Orthoceras
(F. 613; x = 20o54' 21'' B; y =107o26'27'' Đ). Bề
dày > 200 m. Trên đảo Trà Bản (H́nh 1.5), hệ tầng
Vạn Cảnh lộ dọc theo vách đường ô tô, từ
trụ sở UBND xă Bản Sen đến thôn Đồng
Danh, gồm cát kết, bột kết sáng màu, đá phiến
sét màu đỏ nâu. Bề dày >200 m. Tại các điểm
lộ F.621 (x = 20o58’13” B; y = 107o29’23” Đ),
cách trụ sở UBND xă Bản Sen 300m về phía nam, trong cát
kết và điểm lộ F.620 (x = 20o57'33'' B; y =
107o29'23'' Đ); tại Đồng Danh, cách trụ
sở UBND xă 1,5 km về phía nam, trong bột kết màu vàng
nâu đă thu thập được các di tích thực vật
thuỷ sinh Psilophytites ? sp. và Vỏ cứng. Một
điều đáng lưu ư, tại mặt cắt này, nằm
trực tiếp trên tập bột kết chứa thực
vật Đevon sớm là cát kết dạng quarzit chứa
phong phú di tích cá và thực
vật Lepidodendropsis của hệ tầng Đồ
Sơn.
Trên bán đảo Đồ
Sơn (H́nh 2.4), hệ tầng thường nằm ở phần
thấp của các mặt cắt. Tại sườn núi
phía đông bắc làng Ngọc Xuyên, mặt cắt hệ tầng
lộ ra ở đây bắt đầu bằng tập bột
kết phân lớp 10-20 cm, màu xám trắng, lục nhạt,
chứa nhiều vẩy sericit, xen kẽ gần như luân
phiên với các lớp cát kết vôi, phân lớp 30-40 cm.
Đá có thế nằm thoải, góc dốc 15o,
cắm về B-TB. Tại điểm lộ F.589 (x = 20o43’03”
B; y = 106o45’19” Đ), trong bột kết đă thu thập
được các di tích Eurypterid, cá, Lingula. Cũng tại
chân sườn núi này, sát nhà dân ở thôn Ngọc Xuyên, P.
Janvier và nnk. [4-7] đă sưu tập được cá cổ: Yunnanolepis, Zhanjilepis,
Wangolepis và Eurypterida Rhynocarcinosoma dosonensis,
Hyghmilleria sp., thực vật Cooksonia. Bề dày tập
~ 80 m. Chuyển tiếp lên trên là tập cát kết phân lớp
dày xen các lớp mỏng bột kết màu đỏ chứa
phong phú Lingula kích thước lớn, lộ ra ở
phần cuối dải núi này. Ngoài Lingula, trong cát kết
c̣n gặp rất phong phú các dấu vết hoạt động
của sinh vật đường kính 8-10 mm, dạng ống,
cắt vuông góc mặt lớp của đá, chiều dài
20-30 cm . Bề dày tập ~ 35 m. Nằm trên tập 2 là cuội
kết, sạn kết, cát kết phân lớp xiên, cát kết
sáng màu lộ ra ở trên đỉnh 98, được coi
thuộc hệ tầng Đồ Sơn. Mặt cắt
tương tự cũng lộ ra ở mỏ đá Nam
Thôn (x = 20o42’30” B,
y = 106o47’08” Đ), gồm bột kết màu xám trắng,
phớt lục xen các lớp cát kết sáng màu, phân lớp
0,4 - 0,5 m; chứa di tích cá cổ
Galeaspis và các di tích Eurypterid giống như ở vết
lộ F.598 (ở Ngọc Xuyên). Tại mặt cắt này có
thể quan sát được tập cuội kết, sạn
kết, cát kết phân lớp xiên của hệ tầng
Đồ Sơn nằm không chỉnh hợp trên hệ tầng
Vạn Cảnh mà P. Janvier [7] đă mô tả. Bề dày chung
của hệ tầng quan sát được ở bán đảo
Đồ Sơn >110 m; trên các đảo là >200 m.
Quan
hệ địa tầng và tuổi: Ở các đảo trong vịnh Bái Tử Long cũng
như trên bán đảo Đồ Sơn đều không thấy
được ranh giới dưới của hệ tầng
Vạn Cảnh v́ bị ch́m dưới mực nước
biển. Ranh giới trên của hệ tầng quan sát
được tại bờ tây đảo Vạn Cảnh.
Ranh giới này được vạch ở giữa 2 lớp:
lớp cát kết chứa hoá thạch thực vật Psilophytites
? sp. nằm dưới và lớp đá phiến sét vôi chứa
Có nhiều ư kiến khác nhau về
tuổi của hệ tầng Vạn Cảnh. Trước
hết cần loại trừ yếu tố Givet v́ thực
tế các hoá thạch cá cổ Bothriolepis và thực vật
Lepidodendropsis cho tuổi Givet trên bán đảo Đồ
Sơn cũng như trên đảo Trà Bản không đi
cùng với các lớp chứa cá và thực vật thuỷ
sinh Đevon hạ, chúng có vị trí địa tầng nằm
trên rất rơ ràng ở tất cả các mặt cắt. Trên
cơ sở các phức hệ
cá cổ
Yunnanolepis, Wangolepis;
Eurypterida Rhynocarcinosoma dosonensis, Hyghmilleria sp. và thực
vật Cooksonia, P. Janvier và nnk. [4-7] cho rằng các lớp
chứa hoá thạch kể trên thuộc Silur muộn -
Đevon sớm. Tuy nhiên, cũng tại điểm lộ
chứa cá cổ
và Eurypterid ở Ngọc Xuyên, Zhu Huaicheng và Li Jun (Viện
Địa chất và Cổ sinh Nam Kinh) đă xác định
được Bào tử: Calamospora sp., Retusotriletes
rotundus, R. warringtonii, Apiculiretusispora sp., Dictotriletes
subgranifer, Emphanisporites neglectus, E. cf. micronatus,
Archaeozonotriletes sp. và Acritarcha: Veryhachium sp. cho tuổi
Đevon sớm (Vũ Khúc và nnk., 2000). Theo quan điểm của
chúng tôi, trong đới Quảng Ninh, sự có mặt của
các trầm tích Silur thượng thuộc hệ tầng Kiến
An, cách Đồ Sơn 15 km về phía tây bắc, đảm
bảo một sự khác biệt rơ ràng, kể cả thành
phần trầm tích và phức hệ cổ sinh. Do vậy
các yếu tố Silur muộn ở bán Đảo Đồ
Sơn cần được loại trừ. Cùng với
các kết quả nghiên cứu hoá thạch thực vật
thuỷ sinh mới được sưu tập trên các
đảo ở vùng vịnh Bái Tử Long trong mùa thực
địa đầu năm 2005, được gửi
đến GS Wang Yi, Viện Địa chất và Cổ
sinh Nam Kinh, Trung Quốc nghiên cứu và xác định gồm
Taeniocrada? cf. decheniana, Psilophytites ? sp. cho tuổi
Đevon sớm và được ông so sánh với các hoá thạch
thực vật Đevon sớm ở Đông Vân
b. Hệ tầng Dưỡng Động
(D1-2 dđ)
Trong công tŕnh này, hệ tầng
Dưỡng Động được coi là chỉ gồm
các tập đá phiến sét vôi, bột kết vôi xen cát kết
chứa các hoá thạch Tay cuộn, Huệ biển, San hô,
đặc trưng cho tướng trầm tích biển nông.
Các tập cuội kết, sạn kết, cát kết dạng
quarzit không chứa hoá thạch biển thường lộ
ra ở phần trên của mặt cắt, trước
đây thường được mô tả là thành phần
của hệ tầng Dưỡng Động, nay chúng tôi
coi thuộc hệ tầng Đồ Sơn. Trên đất
liền, hệ tầng Dưỡng Động chủ yếu
lộ ra ở vùng Kinh Môn, tỉnh Hải Dương và Thuỷ
Nguyên, Tp. Hải Pḥng. Trên biển, chúng lộ ra trên các đảo
Ngọc Vừng, Phượng Hoàng, Vạn Cảnh, Đông
Chén, Châu Dấp và Trà Bản thuộc vịnh Bái Tử Long.
Hệ tầng có ranh giới dưới chỉnh hợp
trên hệ tầng Vạn Cảnh và ranh giới trên
được coi không chỉnh hợp dưới hệ tầng
Đồ Sơn.
Các mặt cắt
của hệ tầng Dưỡng Động ở trên
đất liền gồm có:
Mặt cắt Hiệp Sơn
Hạ (H́nh 2.3). Lộ ra ở eo núi phía nam làng Hiệp
Hạ (trên bản đồ địa h́nh 1:50.000 ghi là Hiệp
Sơn Hạ), cách thị trấn Kinh Môn 1,5 km về phía tây
bắc. Chân mặt cắt lộ ra tại ngă ba từ
đường nhựa rẽ về phía đông bắc
theo đường cấp phối vào làng Hiệp Hạ (x
= 20o 59’22” B; y = 106o 32’12” Đ). Nh́n chung, thế
nằm của các lớp đá khá ổn định,
đơn nghiêng, cắm về B-TB 350o với góc dốc
40-45o.
Tập 1. Đá phiến sét vôi màu xám xanh, đá phiến
sericit chứa các dấu vết
Tập 2. Cát kết, bột kết, đá phiến
sét xen kẽ gần như luân phiên, màu xám trắng, phong hoá
có màu đỏ nâu, chứa nhiều vảy mica. Các lớp
bột kết có bề dày 0,2 - 0,3 m, cát kết dày 0,25 - 0,5
m, đôi chỗ gặp các lớp quarzit màu trắng trong, rắn
chắc, dày 0,4 - 0,5 m. Bề dày tập: 170 m.
Tập 3. Đá phiến sét xen bột kết màu tím gụ
có nhiều vảy mica chứa các di tích
Hệ tầng
Dưỡng Động ở vùng Lỗ Sơn (H́nh 2.1) phân
bố thành dải, hướng TB-ĐN, từ núi Tử Lạc
qua núi Cúc Tiền đến núi La Dương. Không thấy
được mặt cắt đầy đủ của
hệ tầng v́ địa h́nh phân cắt và bị đá
phun trào keratophyr xuyên cắt. Tổng hợp các đoạn
mặt cắt, chúng tôi lập lại trật tự địa
tầng của hệ tầng ở vùng Lỗ Sơn
như sau:
Tập 1. Đá phiến sét đen xen bột kết
màu xám trắng, phong hoá có màu tím gụ, chứa phong phú hoá thạch
Tay cuộn: Schizophoria cf. macfarlami Grabau, S. cf.
impressa Hall, Atrypa cf. desquamata Sow., A. cf. magna
Grabau, Chlupacina cf. nariensis Rach., Bacbonetes sp.
và các vết in đài Rugosa (F.569; x = 21o01'09'' B; y =
106o34'56'' Đ), cách ngă ba Hoàng Thạch - Lỗ
Sơn - Tử Lạc 750 m về phía đông nam). Bề dày
50 m.
Tập 2. Cát kết hạt nhỏ màu xám trắng,
phân lớp 20 - 30 cm xen các lớp mỏng đá phiến sét
đen, phong hoá có màu tím gụ, chứa hoá thạch Tay cuộn:
Chonetipustula sp. và các di tích Huệ biển (F.570, tây bắc
làng Tử Lạc 1,5 km; x = 21o01’54” B; y = 106o 35’10”
Đ). Bề dày 70 m.
Tập 3. Cát kết màu xám vàng, phân lớp dày 0,5 - 1 m
xen các lớp bột kết chứa
Mặt cắt núi Trại Giáo
vùng Thuỷ Nguyên lộ ra tại núi Trại
Giáo, xă Ngũ Lăo, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải
Pḥng. Mặt cắt đơn nghiêng cắm về phía N-TN,
góc dốc 45o. Trật tự địa tầng từ
dưới lên như sau:
- Đá phiến sét đen chứa
hoá thạch
- Cát kết màu xám sáng. Dày 15 m.
- Cát kết xen bột kết,
đá phiến sét màu xám đen, phong hoá có màu nâu đỏ.
Dày 35 m. Bề dày chung 60 m. Nằm trên với thế nằm
gần như chỉnh hợp là cát kết dạng quarzit của
hệ tầng Đồ Sơn.
Mặt
cắt Dưỡng Động (H́nh
2.2). Ở vùng Tràng Kênh (Minh Đức), hệ tầng
Dưỡng Động phân bố thành dải, theo hướng
tây bắc - đông nam, từ núi Phượng Hoàng qua núi Triệu
Cao đến làng Dưỡng Động. Cũng như ở
vùng Kinh Môn, hệ tầng thường bị đá phun trào
keratophyr xuyên cắt. Cho dù chịu ảnh hưởng của
các hoạt động kiến tạo - magma, gây xáo trộn
ở một vài nơi, nhưng nh́n chung trong toàn vùng, hệ
tầng thường chiếm vị trí địa tầng
thấp nhất ở các mặt cắt.
Trong các moong khai thác đá phiến
sét làm phụ gia xi măng của nhà máy Chinh Phong ở phía
tây thị trấn Minh Đức, tại xóm Đông và trên
các ngọn đồi, dọc theo đuờng ôtô từ thị
trấn Minh Đức đến làng Dưỡng Động,
lộ ra các lớp đá phiến sét đen xen kẽ gần
như luân phiên với các lớp bột kết màu tím gụ.
Tại điểm lộ F. 576 (x = 20o57’32” B; y = 106o44’09”
Đ), sườn phía đông núi Phượng Hoàng, trong
đá phiến sét đen bị nén ép mạnh đă sưu tập
được hoá thạch
Các
mặt cắt của hệ tầng Dưỡng Động
trên các đảo. Tại bờ
đông đảo Ngọc Vừng (H́nh 1.1), cách điểm
cực nam của đảo 400 m, sát với mực nước
biển, lộ ra các lớp đá phiến sét dày 10-15 cm, xen
kẽ luân phiên với các lớp bột kết chứa vôi,
cát kết dạng quarzit dày 10-30 cm. Đá có thế nằm dốc
đứng, phương B-TB và N-ĐN (H́nh 4), đôi chỗ
uốn lượn ṿ nhàu, chứa khá phong phú Tay cuộn
Đevon sớm, gồm Eoschuchertella guangxiensis Wang et Rong, Howellella
sp., Aulacella cf. zhamoidai
Zuong et Rzhon., Pseudoschizophoria sp., Spinolicosta sp., Eospirifer
sp., Stropheodonta sp., Platyorthis cf. longi Zuong, Tulynetes
nongpoensis (Mans.) và các vết in dài của San hô bốn tia,
vết in đốt thân Huệ biển không xác định
được (F. 600; x = 20o47'56'' B; y = 107o22'57''
Đ). Bề dày chung của hệ tầng ở mặt cắt
này >100 m. Ranh giới dưới không quan sát được
v́ bị ch́m dưới mực nước biển. Ranh giới
trên bị các tảng lớn cuội kết, sạn kết
và cát kết phân lớp xiên của hệ tầng Đồ
Sơn phủ lấp.
Trên bờ tây đảo Vạn Cảnh
(H́nh 1.2), cách bến tàu khách Ngọc Vừng 3,5 km về phía
B-TB, lộ ra các lớp đá phiến sét xen bột kết
vôi. Đá có thế nằm thoải, góc dốc 30o,
cắm về phía tây (270o). Trong bột kết
đă thu thập được các di tích Tay cuộn Tulynetes
nongpoensis (Mans.) và các hoá thạch
Trên đảo Trà Bản (H́nh 1.5),
hệ tầng Dưỡng Động lộ trên vách
đường ô tô ven đảo, đoạn từ trụ
sở UBND xă Bản Sen đến làng Nà Sắn, gồm
đá phiến sét đen, đá phiến sét vôi, bột kết
chứa vôi xen với cát kết. Tại điểm lộ
F. 616 (x = 20o58’42” B; y = 107o29’41” Đ), ở
vách bên trái đường ô tô, cách UBND xă Bản Sen 1,8 km về
phía bắc, trong đá phiến sét đen đă thu thập
được các di tích Huệ biển và Tay cuộn bảo
tồn xấu. Tại điểm lộ F.618 (x = 20o58’35”
B; y = 107o29’34” Đ), trong đá phiến sét đen
đă thu thập được các di tích Chân ŕu. Bề dày
chung của hệ tầng ở mặt cắt này >200 m.
Quan hệ địa tầng
và tuổi. Ranh giới dưới của hệ tầng
Dưỡng Động ở các mặt cắt trên đất
liền đều không quan sát được v́ đă bị
trầm tích Đệ tứ phủ lấp (như ở
các vùng Kinh Môn, Thuỷ Nguyên, Dưỡng Động). Trên
biển, ranh giới này cũng chỉ thấy được
ở một số đảo. Trên bờ tây đảo Vạn
Cảnh (F. 608) và trên đảo Trà Bản, theo mặt cắt
từ trụ sở UBND xă Bản Sen đi Nà Sắn, hệ
tầng nằm chỉnh hợp trên các lớp chứa hoá thạch
thực vật thuỷ sinh Taeniocrada? cf. decheniana, Psilophytites ? sp. của hệ tầng
Vạn Cảnh. Ranh giới trên của hệ tầng là
ranh giới không chỉnh hợp dưới hệ tầng
Đồ Sơn, quan sát được trên bờ đông
đảo Ngọc Vừng. Tại các vết lộ F.600,
F.601, lộ ra các lớp bột kết xen đá phiến
sét và cát kết có thế nằm dốc đứng chứa
phong phú hoá thạch Tay cuộn thuộc phức hệ Tulynetes
nongpoensis (H́nh 4). Nằm không chỉnh hợp trên chúng là cuội
kết, sạn kết, cát kết phân lớp xiên của hệ
tầng Đồ Sơn (H́nh 5). Trên đất liền, ở
các mặt cắt Tràng Kênh, Dưỡng Động, Trại
Giáo, Cúc Tiền, Yên Phụ đều bắt gặp các tập
sạn kết, cát kết phân lớp xiên, cát kết dạng
quarzit thuộc hệ tầng Đồ Sơn có vị trí
địa tầng nằm trên, nhưng với quan hệ
dường như chỉnh hợp về mặt thế nằm,
có thể coi thuộc hiện tượng bất chỉnh
hợp song song.
Trong các công tŕnh nghiên cứu
trước đây, hệ tầng Dưỡng Động
được coi có tuổi D1-2 trên cơ sở
các phát hiện rời rạc các điểm hoá thạch Euryspirifer
cf. tonkinensis (Mans.), Syringopora cf. eifelensis Schl.
trong các lỗ khoan ở Mạo Khê, Amphipora vatustior Gur.
trong đá vôi ở phía bắc bến đ̣ Quảng Yên, Atrypa
ex gr. desquamata Sow. ở Khe Riềng và nam Dưỡng
Động; Carinatina cf. arimaspa, Bacbochonetes janvieri,
Indospirifer kwangsiensis, Aulacella zhamoidai ở Tử Lạc
và nam huyện lỵ Chí Linh cũ. Trước hết cần
lưu ư điểm hoá thạch Euryspirifer cf. tonkinensis
(Mans.) do Safronov (1960) t́m được trong lơi khoan ở
Mạo Khê là loại bảo tồn không đầy đủ
và cho đến nay chưa ai phát hiện lại được
các dạng tương tự ở đới Quảng Ninh
. Loài Lỗ tầng Amphipora vatustior Gur. cho tuổi
Những sưu tập mới về
cổ sinh trong hệ tầng Dưỡng Động ở
bờ đông đảo Ngọc Vừng và ở Tử Lạc
gồm Eoschuchertella guangxiensis Wang et Rong, Howellella
sp., Aulacella cf. zhamoidai Zuong et Rzhon., Pseudoschizophoria
sp., Spinulicosta sp., Eospirifer sp., Strophodonta sp., Platyorthis
cf. longi Zuong, Tulynetes nongpoensis (Mans.). Đây là phức
hệ Tay cuộn đă gặp ít nhiều trong các hệ tầng
Mia Lé, Bản Nguồn ở Bắc Việt Nam và Yukiang (Úc
Giang) ở Quảng Tây, Trung Quốc, ứng với khoảng
Praga - Emsi. Trong số hóa thạch sưu tập trên đất
liền ở Tử Lạc và Núi Thần (Lỗ Sơn),
bên cạnh những loài và dạng Đevon sớm như Bacbochonetes
janvieri Rach., Atrypa ex gr. reticularis Linn., Schellwienella
sp., Chlupacina cf. nariensis Rach., c̣n gặp các dạng
thường gặp trong trầm tích Đevon trung, bậc
Givet như Atrypa (Desquamatia) cf. magna Grabau, Schizophoria
cf. macfarlanii Grabau, Schizophoria cf. impressa Hall,
Chonetipustula sp.. Do vậy tuổi hệ tầng Dưỡng
Động được coi thuộc Emsi-
H́nh 3. Quan hệ không chỉnh hợp giữa Ht Quán Lạn
(A) và Ht Vạn Cảnh (B),
bờ tây nam bán đảo Đồ Sơn
H́nh 4. Cát kết chứa cuội của Ht Vạn Cảnh,
bờ tây nam bán đảo Đồ Sơn
H́nh 5. Bề mặt nứt nẻ do khô
hạn của đá phiến sét
thuộc Ht Vạn Cảnh,
tây nam bán đảo Đồ
Sơn
H́nh 6. Cát, bột kết
xen đá phiến sét có thế nằm dốc đứng
của Ht Dưỡng Động bờ đông đảo
Ngọc Vừng
H́nh 7. Cát kết phân lớp xiên của Ht Đồ Sơn bờ
đông đảo Ngọc Vừng
(Xem tiếp trong số sau của TCĐC )