THÔNG
BÁO KHOA HỌC
HỆ TẦNG CƯ BREI TUỔI ĐEVON SỚM Ở KON TUM,
THÂN ĐỨC DUYỆN1, BÙI PHÚ MỸ2, TỐNG
DUY THANH3
1Liên
đoàn Bản đồ địa chất
miền Nam, 200 Lý Chính Thắng,
TP Hồ Chí Minh
2Tổng hội Địa chất
Việt Nam, 6 Phạm Ngũ Lão,
Hà Nội
3Trường Đại học
KHTN (ĐHQG Hà Nội), Nguyễn
Trãi, Hà Nội
Tóm tắt: Trầm tích Đevon được phát hiện ở Kon Tum,
miền
Phần
dưới: Bất chỉnh
hợp trên granođiorit thuộc pha 2 phức hệ Diên Bình là trầm tích lục nguyên như
cuội kết, sạn kết, cát kết, trên cùng là bột kết, sét kết. Bề
dày khoảng 175 m.
Phần
trên: Chỉnh
hợp trên phần dưới là lớp đá phiến talc, tiếp đến là trầm tích carbonat,
đolomit xen các lớp đá phiến sét vôi, đá phiến sét sericit, sét bột kết. Trên
cùng là đá vôi đolomit màu xám trắng, đá vôi màu xám đen, xám nhạt. Bề dày khoảng 250 m.
Các tập đá vôi màu xám
đen chứa hóa thạch San hô vách đáy (Tabulata) và Lỗ tầng (Stromatoporoidea) tuổi
Đevon sớm; ngoài ra còn có di tích Tảo, Huệ biển bảo tồn xấu. Tổng bề dày của hệ tầng thấy được hơn 400 m.
Trầm
tích lục nguyên - carbonat ở vùng núi Cư Brei xã Ya Ly, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon
Tum (Hình 1) do Đề án đo vẽ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1: 50.000 Kon
Tum thuộc Liên đoàn Bản đồ địa chất miền Nam phát hiện (2001) và Thân Đức Duyện
mô tả sơ bộ dưới tên gọi hệ tầng Cư Brei [4].
Phát hiện trầm tích Đevon ở Kon
Tum là một sự kiện mới trong địa chất khu vực. Để khẳng định chính xác hơn sự
kiện này, đầu tháng 1 năm 2004, một nhóm nghiên cứu của Đề án Kon Tum (Liên
đoàn BĐĐC miền Nam) và các nhà địa chất Bùi Phú Mỹ, Tống Duy Thanh đã tiến hành
khảo sát kiểm tra thực địa, thực hiện một số hành trình địa chất cắt ngang
phương cấu trúc và đã thu thập được một sưu tập hoá thạch phong phú cho phép
xác định chính xác tuổi của hệ tầng.
Hệ
tầng Cư Brei (D1 cb) hầu như bị các trầm tích Đệ tứ phủ kín
và chỉ lộ theo một số suối nhỏ, theo đó có thể biết hệ tầng phân bố theo một dải
hẹp, dài khoảng 6 km, rộng khoảng 3 km trong một cấu trúc phức nếp lõm, có trục
theo phương ĐN-TB với góc dốc hai cánh thay đổi từ 40 đến 70o. Chúng bị 2 hệ thống đứt gãy phương TB-ĐN và kinh tuyến phân chia
thành 2 diện lộ bắc Cư Brei và nam Cư Brei.
Dưới đây là đặc điểm của các mặt cắt ở hai vùng này.
Mặt cắt bắc Cư Brei
(Hình 2). Mặt
cắt lộ theo phương TB-ĐN ở rìa tây bắc chân núi Cư
Brei, thuộc tờ bản đồ Deo Go (D-48-72-A) (x = 14o17’40’’; y = 107o39’15’’)
theo trật tự địa tầng sau.
Phần dưới dày171 m, gồm trầm tích lục nguyên với các tập:
Hình 1. Vị
trí địa lý của hệ tầng Cư Brei
1. Phủ trực tiếp trên các đá granitoiđ kiểu Diên Bình là cuội kết,
cuội sạn kết, cát kết phân lớp dày. Cuội được mài tròn tốt và bị ép dẹt, chủ yếu
là thạch anh, ít đá granit aplit, granitogneis và đá
phiến kết tinh. Xen trong những lớp cuội có lớp cát kết, bột
kết xám vàng phớt trắng. Dày 11 m.
2. Cát kết màu xám vàng, có nơi xám trắng, hạt vừa đến thô, phân lớp
dày xen lớp mỏng sạn kết, thỉnh thoảng trong các lớp có cuội thạch anh mài tròn
tốt. Bề dày 41 m.
3. Sét kết, bột kết màu xám đen,
phân lớp mỏng, bị phiến hóa mạnh, thỉnh thoảng xen lớp cát kết mỏng màu xám
vàng. Bề dày 119 m.
Phần
trên
dày 231 m, gồm các tập trầm tích carbonat xen lục nguyên như sau:
1. Đá phiến talc màu xám xanh đen, xám phớt trắng, phân lớp mỏng, bị
phân phiến mạnh. Bề dày 18 m .
2. Đá vôi đolomit màu xám trắng sữa, cấu tạo khối, có xen vài lớp mỏng
đá phiến sét màu xám đen. Bề dày 29 m.
3. Sét kết, bột kết màu xám sẫm bị phân phiến mạnh, đôi nơi gặp đá
phiến sericit. Bề dày 51 m.
4. Đá vôi màu xám đen phân lớp dày, có dấu tích của Tảo và Huệ biển.
Bề dày 51 m.
5. Đá phiến sét đen, kẹp thấu kính mỏng đá sét vôi có di tích của Tảo,
Huệ biển và San hô. Bề dày 22 m.
6. Đá vôi đolomit màu xám, xám đen, cấu tạo phân lớp mỏng, xen những
lớp mỏng đá phiến sét vôi, phiến sét sericit dày một vài cm. Bề dày 23 m.
7. Đá vôi đolomit màu xám trắng phân lớp dày, xen kẹp ít lớp mỏng đá
phiến sét talc màu xám và đá phiến sét vôi, đá phiến sét sericit dày một vài
cm. Bề dày 37 m.
Mặt cắt
Phần dưới dày 176 m, gồm trầm tích lục nguyên với các tập sau:
1. Sạn kết, cát kết hạt thô màu xám vàng phân lớp dày, thỉnh thoảng
có hòn cuội mài tròn tốt. Thành phần cuội đa khoáng, chủ yếu là thạch anh, ít
đá granitogneis, đá granit aplit và đá phiến kết tinh.
Bề dày 26 m.
2. Cát kết hạt nhỏ tới vừa, màu xám vàng phớt trắng, phân lớp dày, xen
ít lớp mỏng bột kết màu xám. Bề dày 54 m.
3. Cát kết, sạn kết màu tím vàng, phân lớp dày, chứa ít cuội thạch
anh nhỏ màu trắng, mài tròn tốt. Bề dày 26 m.
4. Cát kết thạch anh hạt nhỏ, màu xám vàng, phân lớp mỏng. Bề dày 12 m.
5. Bột kết, sét kết màu xám, xám vàng, phân lớp mỏng, xen ít lớp mỏng
đá phiến sét màu xám đen. Bề dày 58 m.
Phần
trên dày 33 m, gồm trầm tích lục nguyên xen carbonat với các
tập từ dưới lên như sau:
1. Đá phiến talc màu xám sẫm, xen ít
thấu kính đolomit màu xám trắng. Dày 2 m.
2. Đá vôi đolomit màu xám trắng, phân lớp mỏng. Dày
6 m.
3. Sét vôi màu xám sẫm, phân lớp mỏng. Dày 10 m.
4. Đá vôi đolomit màu xám, phân lớp mỏng. Dày 4
m.
6. Đá vôi xám sẫm phân lớp dày xen lớp mỏng đá vôi màu xám nhạt. Dày 11 m.
Tổng chiều dày mặt cắt là 209 m.
Trong
đá vôi xám sẫm gặp hóa thạch Tảo, Huệ biển, San hô (Tabulata) và Lỗ tầng
(Stromatoporoidea) Syringostroma cf. densum Nicholson (mẫu 1902),
Amphipora cf. raris Yavorsky (mẫu 1902/1b), A. cf. raritalis
Yavorsky (mẫu 1902/1C), Simplexodictyon cf. artyschtense Yavorsky
(mẫu 1902/1g), Stromatopora cf. boriarchinovi Yavorsky (mẫu
1903/2) và nhiều mẫu khác chỉ xác định được là Stromatopora sp. indet.
Tuy
hóa thạch bảo tồn không tốt, việc xác định chỉ có thể dừng lại ở mức các dạng bỏ
ngỏ, nhưng do chúng được phát hiện và thu thập với số lượng lớn trong các điểm
liền kề nhau cả về vị trí địa tầng lẫn vị trí địa lý nên tập hợp hoá thạch này
có thể định tuổi đáng tin cậy cho trầm tích chứa chúng. Với
hóa thạch San hô Squameofavosites aff. spongiosus
Dubat. đã xác định trước đây cùng hóa thạch Lỗ tầng vừa kể trên có thể khẳng định
hệ tầng Cư Brei có tuổi Đevon sớm và hoàn toàn có thể so sánh với mức địa tầng
Praga (Đevon hạ) của các hệ tầng Mia Lé, Bản Nguồn và phần thấp của hệ tầng
Khao Lộc ở Bắc Bộ.
Hệ
tầng Cư Brei bắt đầu bằng tập cuội cơ sở nằm bất chỉnh hợp trên đá granođiorit
biotit horblenđ dạng gneis kiểu Diên Bình có tuổi K/Ar: 384 ±17; 418 ±12 và 398
triệu năm [1, 7].
Với tài liệu kể trên, hệ tầng Cư Brei được định tuổi Đevon sớm (D1 cb). Tuy vậy,
diện lộ của hệ tầng chỉ mới phát hiện được trên một diện tích nhỏ ở xã Cư Brei
nên không loại trừ khả năng diện phân bố và tuổi của hệ tầng có thể được mở rộng
hơn.
Bên cạnh ý nghĩa địa tầng và địa chất khu vực, đá vôi
trong hệ tầng Cư Brei có hàm lượng CaO cao, lại chưa bị biến chất cao nên có ý
nghĩa lớn đối với kinh tế địa phương. Kết quả phân tích hoá học một số mẫu đá
vôi và đolomit cho thấy hàm lượng CaO và MgO như sau: 1). Trong đá vôi:
CaO = 44,22 - 52,97%; MgO = 0,52 - 4,19%; 2).
Trong đolomit: CaO = 29,03 - 30,13%; MgO = 17,44 - 19,56%.
Nếu các số liệu về hàm lượng CaO và MgO trên đây là phổ biến cho
toàn bộ thành phần của hệ tầng thì đá vôi và đolomit ở Cư Brei đều đạt tiêu chuẩn
công nghiệp. Theo ước tính của Đề án Kon Tum, trữ lượng đá vôi công nghiệp P2
= 14.217.000 tấn, đolomit P2 = 7.740.000 tấn; như vậy có thể hy vọng
đá vôi và đolomit của hệ tầng Cư Brei là loại hình khoáng sản có thể góp phần
vào sự phát triển kinh tế ở Kon Tum và các tỉnh Tây Nguyên.
Lời cảm ơn:
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành bài báo này các tác giả nhận được sự hỗ
trợ của Liên đoàn BĐĐC miền
VĂN LIỆU
1. Faure C.,
Fontaine H., 1969. Géochronologie du Vietnam méridional. Việt
Nam Địa chất khảo lục, 12: 213-222. Sài Gòn.
2. Fontaine H., Saurin E.,1962. Carte géologique “
3. Nguyễn Văn Trang (Chủ biên), 1996. Bản đồ
địa chất và khoáng sản Việt
5. Tống Duy Thanh (Chủ biên), 1986. Hệ Đevon
ở Việt
4. Thân Đức Duyện, 2003. Phát hiện đá vôi tuổi Đevon ở
6. Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân
Bao (Đồng chủ
biên), 1988. Bản đồ địa chất Việt
7. Trần Văn
Trị và nnk,
1980. Tài
liệu mới về tuổi của một số thành tạo magma ở Nam Việt